Đây quả là một kỷ lục về sức chịu đựng phi thường của con người. Và từ nhiều năm nay ông giữ nếp sinh hoạt, tập luyện đúng mức, đều đặn, hiện ông vẫn sống khỏe, sống vui cùng con cháu.
Dũng cảm tuyệt vời
Năm nay Đại tá Đỗ Văn Trì đã ở tuổi 75, râu tóc bạc trắng. Thoạt nhìn gương mặt tròn phúc hậu luôn nở nụ cười tươi, giọng nói sôi nổi, tác phong nhanh nhẹn, chắc khó ai tưởng tượng nổi ông từng bị thương rất nặng và nhiều năm chống chọi với bệnh tật để tiếp tục sống, chiến đấu và làm việc một cách ngoan cường, hiệu quả đến thế!
Anh hùng Đỗ Văn Trì tại nhà riêng ở Hà Nội.
Ở tuổi đôi mươi, trong đội quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại nước bạn Lào, Đỗ Văn Trì là xạ thủ trung liên thuộc Đại đội 7 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316). Một ngày giữa tháng 7/1965, địch đánh vào sân bay Hứa Mường thuộc tỉnh Sầm Nưa, một căn cứ của Mặt trận Yêu nước Lào. Đơn vị anh đang làm nhiệm vụ phòng ngự trên khu vực đồi H3 và Q6, bất ngờ địch tấn công, một khẩu trung liên bị tắc đạn, anh liền nhảy sang sửa chữa giúp, rồi lại về vị trí của mình bắn xối xả vào đội hình địch. Giặc ỷ đông tiếp tục xông lên. Một quả đạn cối nổ gần hất anh ngã, bị thương vào đầu, cánh tay trái bị xé rách thịt, lộ cả xương, anh vẫn bình tĩnh nhờ đồng đội băng bó rồi dùng tay không bị thương ném mấy quả lựu đạn về phía địch. Chúng đổ thêm một tiểu đoàn cố chiếm khu đồi H3Q6. Bỗng anh thấy đau nhói. Nhìn xuống, một viên đạn đã làm thủng thành bụng, ruột lòi ra. Anh liền nhờ đồng đội lấy cái bát úp lên chỗ vết thương rồi dùng màn cá nhân cuốn chặt lại, chiến đấu tiếp. Có lúc địch tới gần, anh vẫn cùng đồng đội xông lên đánh giáp lá cà. Đến chiều, địch tạm lui xuống chân đồi. Máu trào ra ướt sũng, đồng đội dìu anh vào hầm. Đạn gần hết, anh lại cùng anh em bị thương bò ra gom đạn, tiếp tế cho các xạ thủ. Qua mấy ngày quần nhau với địch, đơn vị đã hy sinh hơn 70 người trong đó có cả Ban Chỉ huy đại đội. Từ Tiểu đội trưởng, anh được chỉ định thay Đại đội trưởng. Không còn gạo, anh em trên chốt phải ăn cả thứ cơm thiu mốc của mấy hôm trước để lấy sức cầm cự, chờ tiếp viện. Đêm, anh vẫn đủ tỉnh táo cử chiến sĩ xuống chân đồi lục tìm trên những xác địch lấy súng đạn và lương khô. Qua hơn 10 ngày chiến đấu, trận địa được giữ vững. Lực lượng phía sau lên thay, chuyển thương binh ra, anh nhường cáng cho anh em khác, còn mình cố đi bộ chờ cáng trở lại đón. Sau này, bác sĩ Lê Nguyên Sơn ở Bệnh viện Sầm Nưa, gặp lại Đỗ Văn Trì đã không giấu được sự khâm phục về sức chịu đựng, lòng dũng cảm tuyệt vời của anh. Bị thương nặng như thế, anh đã nhường cáng thương, tự đi bộ suốt hai ngày để đến được bệnh viện tuyến sau. Ca mổ kéo dài 12 giờ, không có điều kiện gây mê, chỉ gây tê mà anh không hề kêu rên một tiếng. Chính bác sĩ Sơn đã mổ cho anh, lấy gấp những mảnh đạn ở bụng, ở cánh tay và cắt bỏ hai thùy gan số 5 và 6 do đã bị dập nát. Sau đó, Đỗ Văn Trì được đưa về nước bằng máy bay quân sự, điều trị tại Viện 105 Sơn Tây, rồi vết thương nhiễm trùng mưng mủ, phải mổ đi mổ lại tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Ở cánh tay cũng nhiễm trùng phải mổ và sắp xếp lại các mảnh xương, vẫn còn nhiều mảnh đạn không lấy ra hết được. Vì tỷ lệ thương tật của thương binh nặng, anh phải phục viên, trở về quê hương. Song trong lòng anh khôn nguôi nhớ đồng đội, rất muốn trở lại chiến đấu. Hai tháng sau, một tin vui bất ngờ đã đến với anh. Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cho người về quê anh tìm và thông báo quyết định gọi anh trở lại quân ngũ. Ngày 1/1/1967, Thiếu úy Đỗ Văn Trì đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vì những thành tích đặc biệt xuất sắc trong trận chiến đấu ở vùng đồi H3-Q6 giúp bạn Lào.
Trở lại sư đoàn cũ là niềm vui sướng vô bờ của Anh hùng Đỗ Văn Trì và để được tiếp tục đi chiến đấu, anh đã tự nguyện nhận một thủ tục, là từ thương binh hạng nặng nhất (loại 1), xuống loại... 2. Những năm tháng chiến đấu sau đó trong đội hình Sư đoàn 316, anh đã có nhiều trưởng thành, là Đại đội trưởng (năm 1967); Tiểu đoàn trưởng (1970); Trung đoàn trưởng (1974). Và Trung đoàn 148 do anh chỉ huy đã lập công xuất sắc trong trận đánh vào cứ điểm Buôn Ma Thuột, mở đầu cuộc Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Sau ngày nước nhà thống nhất, Chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, anh lại ra tuyến đầu, là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 313 trong nhiều năm chốt giữ ở mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang. Sau đó anh là Đại tá, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2. Giữa năm 2005 ở tuổi 61, anh được nhận quyết định nghỉ hưu.
Anh hùng Đỗ Văn Trì (người mặc quân phục trắng đứng giữa) cùng vợ thăm lại nơi chiến trường xưa ở địa đầu tỉnh Hà Giang (năm 2001).
Tiếp tục chiến đấu với bệnh tật trong đời thường
Anh hùng Đỗ Văn Trì có mối tình thật đẹp với người bạn gái xinh đẹp ở cùng thôn Văn Tràng (Thụy Văn, Thái Thụy, Thái Bình) tên là Ngô Thị Liên. Họ biết nhau từ thuở nhỏ, đúng với hình ảnh: Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp/Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa/Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay/Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm/Bên ấy có người ngày mai ra trận... (Hương thầm - Thơ Phan Thị Thanh Nhàn). Thế rồi phải đợi đến năm 1967, ông anh ruột của Đỗ Văn Trì trước khi tái ngũ, đi B mới đưa cậu em sang nhà cô Liên, Bí thư Chi đoàn xã nói hộ và sau đó hai nhà tổ chức lễ ăn hỏi. Rồi anh lại đi C (mặt trận Lào) thêm 4 năm nữa, chị ở nhà coi như “làm dâu non”, vẫn thường đi lại chăm sóc bố mẹ anh, đến năm 1971 hai người mới chính thức làm lễ cưới. Sau đó anh lại vào chiến trường, phải 2 năm sau anh ra Bắc, họ mới có đứa con trai đầu lòng, là Đại tá Đỗ Xuân Quý - Tùy viên quân sự Đại sứ quán nước ta tại Ba Lan hiện nay.
Người bạn đời của Anh hùng Đỗ Văn Trì đã đồng hành, chia sẻ ngọt bùi cùng ông trong gần 50 năm qua, trong đó có quãng thời gian khá dài chăm sóc ông trong bệnh viện. Bà Ngô Thị Liên kể về sức khỏe chồng: Năm 1970 khi ông đang là Tiểu đoàn trưởng bên Lào thì bỗng bụng bị trướng lên, cấp trên cho một chuyến trực thăng cấp cứu về Viện 108, Hà Nội. Vết mổ ngày trước bị dính ruột và nhiễm trùng, phải mổ lại, sau đó bị liệt dây thần kinh gần 3 tháng. Riêng phần ổ bụng 5 lần mổ. Rồi dạ dày lại bị viêm bờ cong nhỏ phải mổ cắt 3/4, may mà sinh thiết không thấy có tế bào ung thư. Tiếp đến thoát vị đĩa đệm cổ phải mổ và làm nẹp. Cánh tay bị thương cũng phải mổ đi mổ lại 3 lần, thế mà vẫn chưa lấy hết mảnh đạn. Hôm đưa vào máy chụp CT, máy cứ kêu “reng, reng” vì có kim khí trong người. Vậy là tổng cộng ông ấy đã lên bàn mổ 10 lần.
Khi được hỏi về cái cách ông vượt qua bệnh tật, bà cười nói rằng, ông nhà tôi là người có ý chí và sức chịu đựng hiếm có. Sau ngày về hưu nảy sinh thêm nhiều thứ bệnh mà lúc ở đơn vị không có, hoặc chưa thấy xuất hiện, như: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tiểu đường... Dù bị bệnh tật giày vò, sức khỏe giảm sút, ông vẫn sống lạc quan, không bao giờ thấy ông kêu ca, phàn nàn gì. Việc tập luyện thì ông rất chăm chỉ. Nhà cách Hồ Tây không xa, ngày trước ông vẫn thường đi bộ buổi sáng quanh hồ hàng chục cây số, rồi thấy bệnh tim mạch có chiều hướng nặng thêm, bác sĩ khuyên nên hạn chế đi bộ xa, thế là ông tập trèo cầu thang từ tầng 1 lên tầng 5. Ban công nào ông cũng trồng cây cảnh và hàng ngày kết hợp chăm bón cây cảnh, tưới cây với việc lên xuống cầu thang một cách nhẹ nhàng...
Đầu tháng 1/2018 này, người anh hùng từng 10 lần lên bàn mổ được đón một sự kiện mới. Ấy là việc Bộ Quốc phòng Việt Nam - Lào - Campuchia mở cuộc thi chung viết về kỷ niệm sâu sắc trong đời chiến đấu của các cựu chiến binh 3 nước. Và bài viết của ông về cuộc chiến đấu bảo vệ cơ quan đầu não Chính phủ cách mạng Lào đã được trao giải. Hôm nhận giải trong hội trường Bộ Quốc phòng, có cô con gái út của ông tháp tùng bố từng bước. Cô vui vẻ nói với người viết bài này khi tình cờ được ngồi bên cạnh ông: Bố cháu bảo, cả đời chỉ cầm cây súng, mà nay mới cầm cây viết lần đầu đã có giải, đúng là niềm vui đến bất ngờ, cảm thấy người khỏe ra!