Khoảng 8 giờ tối chủ nhật mới đây, đúng hẹn tôi tìm đến nhà họa sĩ Văn Ngọc, ở một ngách sâu trong một con ngõ dài trên đường Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu. Một con ngõ mờ ảo trong ánh đèn rất nhạt từ đâu đó hắt ra. Còn ngôi nhà của họa sĩ lại âm u với những bức tường gạch cũ với hai cánh cửa gỗ thô sơ. Lấp ló phía sau lùm cây tối là một tấm bia đá nhỏ khắc chữ: “VAN NGOC PRISON”, nghĩa là nhà tù Văn Ngọc. Tôi thấy rợn rợn đứng chờ trong bóng tối...
Gặp ông “cai ngục”
Một tiếng động khẽ, tôi chưa định thần trong bóng tối, thì cánh cửa kẹt mở. Một cô bé mặc áo trắng xuất hiện và ra hiệu cho tôi đi vào. Một thứ ánh sáng lơ lớ gọi là vàng choẹt chỉ đủ hắt xuống bước chân. Tôi đi theo cái bóng trắng chấp chới trong đêm tối. Bước chân tôi lò dò theo bản năng định hướng chứ cái bóng áo trắng của cô bé đã mất hút trong bóng tối. Khi đó, tôi đành đứng lại trước một ánh đèn dầu soi lập lòe, trên một khối gỗ vuông dài như một chiếc quan tài vậy. Thật nổi gai chân tóc. Hai cột gỗ bên cạnh cũng gắn một cặp hộp rỗng hình chữ nhật không khác chiếc tiểu sành là mấy. Tôi phân vân cố định thần không lẽ đây là phòng khách. Thật quái dị. Bỗng ánh đèn điện bật lên cũng lờ mờ chẳng hơn gì ánh đèn dầu. Tiếng nhạc chèo văng vẳng từ một góc nhà. Bất ngờ từ trong bóng tối, một hình người sạm đen lờ mờ hiện ra từ một khung gỗ, tựa như một bức họa chân dung vậy. Nhưng không phải là một người đẹp mà là một anh chàng ăn mặc luộm thuộm với chiếc áo phông cũ. Trên gương mặt tròn ấy là cặp kính cận hiện lên trong bóng tối như nửa ma, nửa người. Tôi giật thót mình. Nhưng sau khi nghe lời mời chào, tôi mới thấy yên tâm, đó là tiếng người thật sự - họa sĩ Văn Ngọc. Và tôi ngồi xuống đúng cái ghế trước mặt là cái bàn quan tài ấy.
Họa sĩ Văn Ngọc và tác phẩm sắp đặt bàn chân.
Thế là tôi đã đối diện với ông “cai ngục” và hỏi liên miên bao điều về “Nhà tù Văn Ngọc”, vì ngỡ như lạc vào một thế giới thần bí, ma quái. Bởi chung quanh tôi ken đặc những khối gỗ và cột kèo cùng với phiên bản khắc họa kỳ ảo như thời tiền sử. Và, còn bởi những chiếc gương cũ treo trên mảnh tường rêu phong nửa sáng nửa tối vẫn soi rõ mặt mình không khác gì những chiếc mặt nạ da người, với ánh mắt ngơ ngác trước thế giới mộng mị. Ban đầu tôi va vào những thanh gỗ treo lủng lẳng từ trên trần rơi xuống. Mỗi thanh là một bức khắc chạm không rõ hình hài. Đó khi là hình một bàn chân. Có tới 40 bàn chân khắc trên 40 thanh gỗ treo thành những bước đi hình elip, như một sự trở về, sau một hành trình mỏi mệt của đời người. Họa sĩ Văn Ngọc giải thích đó là một tác phẩm gỗ sắp đặt theo cảm xúc khi nghe bài hát của Trịnh Công Sơn. Ca khúc “Một cõi đi về”. Những bàn chân ấy va vào tôi trong bóng tối cùng những lời ca vang lên da diết tự tại: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt...”. Họa sĩ Văn Ngọc dừng lại suy tư sau những ngày tháng lận đận với sắc màu và những ngày tháng đi tìm mình. Anh lặng người một lúc rồi dẫn tôi đi qua những “phòng giam” khác với những tác phẩm trưng bày trong ánh sáng vàng vọt và âm thanh của gỗ khê khàn theo thời gian.
Họa sĩ Văn Ngọc tự ví mình là một tay ve chai đồng nát dị mọ. Anh chỉ mê những thớ gỗ cũ, gỗ già đã bị bào mòn theo thời gian. Không biết bao con đường anh đã đi qua, nhặt nhạnh khênh vác, đào bới để khuân về những tấm gỗ đã lũa theo thời gian. Anh chỉ bộ chữ cái mở đầu cho mọi câu chuyện theo vần của mình cũng được khắc trên những tấm gỗ mà anh đã vớt được trên biển sau cơn bão dạt vào bờ. Những ký ức hiện về theo năm tháng. Tôi chợt nhìn thấy một khối gỗ tam giác lừng lững cao vút tận nóc, giữa một “phòng giam” bên cạnh, nghiêng nghiêng như một hoài niệm về một thứ cổ vật khủng long, hay đó có thể là những hình khối vũ trụ kỳ vĩ. Và, còn kia là tác phẩm bàn thờ Cha tôi. Một bàn thờ đúng nghĩa, với bức ảnh người cha thân yêu của anh nhưng với những sắp đặt chung quanh, tạo nên một sự phối hòa với ánh sáng tâm linh vọng cố hương và sự ám ảnh về cõi người, sau bao nỗi truân chuyên.
Quả mỗi phòng nhỏ, phân chia trong phạm vi 300m2 là mỗi tác phẩm sắp đặt, được trưng bày với một nhịp điệu khắc khoải trong tâm hồn nghệ sĩ. Văn Ngọc cực đoan cho mình không phải là họa sĩ mà chỉ làm nghệ thuật. Anh xử lý mọi sự bằng những tấm gỗ cũ, chạm một chút, phóng bút dù chỉ một mảng màu thô ráp. Thế rồi sắp xếp chúng lại. Bắn vào đó một thứ ánh sáng vừa đủ để bừng lên một ý tưởng. Anh dẫn tôi sang “phòng giam” khác với bộ mảng gỗ cũ lâu năm bị bào mòn lỗ chỗ như những con thuyền nhỏ cô đơn trên bãi đá. Anh đã khắc họa đẽo gọt bớt những nét thừa để làm nên một triết lý nhân sinh được hình thành từ câu chuyện cổ “Ông lão đánh cá và con cá vàng”. Còn kia là bộ đèn lồng cũng được thiết kế bằng khung những mảnh gỗ có vân hoa. Nhưng chiếc đèn lồng được tạo hình theo sự gợi ý, từ câu chuyện phim “Đèn lồng đỏ treo cao” của nghệ sĩ, đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Đó là tiếng kêu thét đau đớn về thân phận phụ nữ của một thời lịch sử mà chế độ đa thê lộng hành... Qua mỗi “phòng giam” người xem có thể rút ra nhiều điều từ tác phẩm sắp đặt, qua sự trải nghiệm trong cuộc đời.
Những sắp đặt dị biệt ngoài nhà tù
Đó là câu chuyện bắt đầu từ tác phẩm sắp đặt đầu tiên của họa sĩ Văn Ngọc mang tên Dư chấn. Đây là sự chia sẻ với nỗi đau nhân loại khi gặp họa cơn bão Chan Chu năm 2006, trưng bày ở Vũng Tàu. Một tác phẩm không chỉ mang tính thời sự, mà còn là sự bày tỏ thái độ công dân chân chính của một nghệ sĩ với cộng đồng, trước thiên tai bão tố. Đây là tác phẩm sắp đặt đầu tiên ở nước ta với một quy mô rộng lớn và mới lạ. Những cột gỗ cũ, những khối nghiêng đổ và những thân phận bị vùi dập được thể hiện trong một khung gỗ cao 7m và dài 12m. Ánh sáng tạo nên cơn sóng cuồng nộ hung tàn đè lấp một không gian u ám bi thương. Bên trong khung gỗ là hàng chục tấm gỗ nhỏ kể những câu chuyện về nỗi đau, cùng những tấm vải bố, thanh sắt và khúc xương được gắn sâu. Trùm lên không gian đầy bi phẫn đó, 1.000 bông hồng xếp chung quanh, thể hiện tấm lòng sẻ chia sự đùm bọc và yêu thương nhân ái. Nó ẩn giấu những nỗi đau không nguôi do thiên nhiên tàn phá. Tác phẩm của Văn Ngọc tạo nên một “dư chấn” trong làng hội họa khi đó và được trao giải Nhất của Hội Mỹ thuật Việt Nam. Duyên phận với nghệ thuật sắp đặt của anh có lẽ bắt đầu từ đó. Những khám phá mới bắt đầu từ ngôi “nhà tù” của mình, đầy ắp những ý tưởng và chật chội những khối hình đã được Văn Ngọc xây dựng gần 20 năm qua.
Nói đến Văn Ngọc, người xem không thể không nhắc đến những tác phẩm sắp đặt gỗ như Những chiếc thùng rỗng, Tưởng nhớ người xưa, Cận góc tối, hay Rằm, hoặc Đêm giáng sinh và Không gian thiền... Chợt nhớ đến dư luận một thời về Những chiếc thùng rỗng mà cánh nhà báo chúng tôi đã bàn tán hết nước hết cái từ hồi năm 2011. Cái dị của tác phẩm mà Văn Ngọc đem đến, ngoài khối lượng cả dăm tấn gỗ chở từ Vũng Tàu ra Hà Nội, còn gây tò mò cho mọi người khi anh treo biển tác phẩm của mình là Những chiếc thùng rỗng. Mà đó là những chiếc thùng rỗng thật. Trong mỗi thành chiếc thùng rỗng đó có đục khoét những lỗ nhỏ như những chấm rỗng giao lưu với ánh sáng chiếu vào.
Cánh nhà báo tò mò và chưa hiểu tác giả định nói gì về những chiếc thùng gỗ rỗng tuếch này. Cái gì bí ẩn ở đây mà tác giả phải tốn tiền chở những chiếc “quan tài” rỗng ấy như vậy. Trời đất, thì ra sự liên hệ của các nhà báo đã gần đến với sự thật mà tác giả ấp ủ. Lần này thì Văn Ngọc tâm sự với tôi, ngay bên chiếc bàn “quan tài” và những chiếc tiểu gỗ trên tường. Rằng đó là câu chuyện được liên tưởng với kỷ niệm của anh từ khi còn bé ở quê. Ngọc chơi trốn tìm với chúng bạn và đã chui vào chiếc áo quan của ông để ở góc nhà. Không ngờ nắp áo quan sập xuống làm cậu bé Văn Ngọc hoảng hốt với bầu không khí ngột ngạt đen đặc vô vọng. Một cảm giác của cái chết ập đến ám ảnh Văn Ngọc cho đến 40 năm sau, chợt liên hệ đến tác phẩm Những chiếc thùng rỗng, với ý tưởng nảy sinh rằng, niềm hy vọng của con người bắt đầu từ đâu? Đó chính là sự gợi mở cho một không gian rỗng của con người với một triết lý sắc sắc, không không mà đạo Phật vẫn coi đó là sự vô thường. Rỗng mà đầy. Không mà có. Thực mà ảo. Hiện hữu mà luân hồi... Mấy cái lỗ nhỏ bên trong thùng rỗng như hút ánh sáng, hút những luồng gió lạ đưa vào khoảng rỗng ấy tạo nên sự hòa nhịp đúng như kinh Phật đã dạy: “Một phen gió nghiệp dừng. Thân này như khúc gỗ”.
“Dư chấn” sau song sắt
Ấn tượng của tác phẩm dẫn người xem đi từ một không gian ba chiều, để liên tưởng tới những ý niệm sống của từng người, khi có một khoảnh khắc bước vào phía trong những chiếc thùng rỗng của Văn Ngọc... Nơi đó là mạch nguồn sáng tạo đầy sự ám ảnh, mọc lên từ mảnh đất, trong cái ngõ xa lạ này đem lại. Chình vì thế, người ta gọi “Nhà tù Văn Ngọc” là một kho báu cho những ý tưởng được đồng sáng tạo giữa tác giả và người đến nhập cuộc, vào từng “phòng giam” của anh. Sự dẫn dụ người xem cùng tham gia sáng tạo và suy tưởng với tác phẩm đó chính là chất quái, chất ma mị của Văn Ngọc.
Chia tay nhau trong cơn gió lồng lộng ngoài biển khơi Vũng Tàu, khi đã 11 giờ đêm, nhưng anh vẫn hối hả vào xưởng làm nốt những việc dở. Dường như mỗi năm anh có một công trình nghệ thuật sắp đặt lớn với những hợp đồng khá bận rộn. Đúng như cái vận tuổi Kỷ Hợi của anh (sinh năm 1959, ở Phú Thọ) rằng: “Tha hương lập nghiệp xứ xa. Trở về cuối vận làm ra có tiền”. Quả vậy, Văn Ngọc đang ấp ủ một dự án mới, theo anh là rất “khủng” khi đã có một nhà chính khách đề xuất vào năm tới (2017). Theo anh, làm xong cuộc sắp đặt kỳ vĩ này sẽ có thể tự hào và sẵn sàng “rửa tay gác kiếm” trở về canh “nhà tù” của mình.