Nghiên cứu về tiền sản giật- sản giật và ghép thận từ người cho tim ngừng đập đạt giải Nhân tài Đất Việt 2017

17-11-2017 09:09 | Tin nóng y tế
google news

SKĐS - Giải thưởng Nhân tài Đất Việt năm 2017 trong lĩnh vực y dược được trao cho một số công trình nghiên cứu quan trọng có nhiều ý nghĩa thiết thực trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân

Giải thưởng Nhân tài Đất Việt năm 2017 do Báo Dân trí tổ chức diễn ra tối ngày 16/11 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đến tham dự và trao giải Nhất lĩnh vực công nghệ thông tin Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2017 cho sản phẩm "Ứng dụng công nghệ mô phỏng thực tại ảo 3D xây dựng cơ thể người phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong khối ngành khoa học sức khỏe".

Đối với giải thưởng Nhân tài Đất Việt năm 2017 trong lĩnh vực y dược được trao cho một số công trình nghiên cứu quan trọng.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, Chủ tịch hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Thị Doan trao giải thưởng lĩnh vực Y dược

Cụm công trình khoa học: Nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản phụ nữ và nâng cao chất lượng dân số của Trường Đại học Y dược- Đại học Huế do nhóm tác giả: GS.TS Cao Ngọc Thành (trưởng nhóm)- Hiệu trưởng trường đại học Y dược Huế thực hiện.

Đây là cụm công trình bao gồm 3 công trình nghiên cứu đã được nhà trường thực hiện qua nhiều năm. Trong đó công trình thứ nhất nghiên cứu chuyên sâu trên diện rộng cho phụ nữ toàn quốc về Tiền sản giật – Sản giật – bệnh lý thường gặp và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vọng mẹ và thai nhi trong thai kỳ.

Công trình thứ hai đã áp dụng các cách đánh giá, chấn đoán vô sinh do vòi tử cung – phúc mạc, áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị nối thông vòi tử cung, gỡ dính và/hoặc tái tạo loa vòi, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị bằng tình trạng vòi tử cung và tình trạng có thai sau mổ cho phụ nữ vùng miền Trung & Tây Nguyên.

Công trình cuối cùng hướng đến phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế đưa ra một số giải pháp phòng chống nhiễm HPV sinh dục nữ cho người dân và giúp triển khai ứng dụng rộng rãi phương pháp VIA để sàng lọc ung thư cổ tử cung tại tất cả các tuyến của hệ thống y tế, đặc biệt là ở tuyến huyện và xã, nơi điều kiện nguồn lực còn hạn chế.

Theo GS. Cao Ngọc Thành, “tiêu điểm” của cụm công trình trên nằm ở công trình thứ nhất chuyên về Tiền sản giật – Sản giật. Trong thời gian nghiên cứu, công trình “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong sàng lọc bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật và xây dựng phác đồ điều trị dự phòng” của trường đã đã thực hiện sàng lọc, theo dõi cho gần 3.500 thai phụ tuổi thai từ 11-13 6 tuần thai kỳ.

Kết quả đã xây dựng được mô hình dự báo có tỷ lệ phát hiện Tiền sản giật phát triển trước 34 tuần lên đến 81,8%, tỷ lệ phát hiện Tiền sản giật phát triển sau 34 tuần là 45,6% chỉ với tỷ lệ dương tính giả 5%, kết quả sàng lọc tỏ ra vượt trội so với các phương pháp sàng lọc truyền thống.

Đáng chú ý nhất trong đề tài này chính là tìm hiểu liên quan đột biến G1691A và đa hình M235T với Tiền sản giật. Theo đó, đã phát hiện người mang gen đột biến G1691A có nguy cơ mắc Tiền sản giật cao gấp 29,04 lần và đột biến này có liên quan với mức độ nặng của bệnh.

Nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa tỷ số SERPINE1 mRNA/GAPDH mRNA, là biểu hiên của gen có nguồn gốc rau thai, với bệnh lý Tiền sản giật và đã thiết lập được phương trình hồi quy logistic có giá trị dự báo Tiền sản giật dựa vào 2 tỷ số FLT-1 mRNA và SERPINE1 mRNA so với gen chứng cho tỷ lệ phân loại đúng của mô hình là 91,18%.

Siêu âm sàng lọc trước sinh tại Trường Đại học Y dược Huế                    Ảnh Đại Dương

Trên cơ sở khả năng dự báo sự hình thành Tiền sản giật tại thời điểm 11-13 6 tuần thai kỳ, đề tài đã thực hiện thử nghiệm (ngẫu nhiên, có nhóm chứng) về hiệu quả dự phòng Tiền sản giật bằng aspirin liều thấp và bổ sung canxi.

Kết quả nghiên cứu cho thấy can thiệp aspirin liều thấp làm giảm 69% tỷ lệ Tiền sản giật. Trong khi bổ sung canxi làm giảm 49% tỷ lệ Tiền sản giật.

Như vậy, nghiên cứu khẳng định có thể tiếp cận điều trị dự phòng bệnh lý Tiền sản giật ngay ở giai đoạn sớm trong thai kỳ trên nhóm đối tượng nguy cơ cao phát triển bệnh được xác định bằng mô hình phối hợp nhiều yếu tố dự báo. Đây là phác đồ đầu tiên được đưa ra dựa trên dữ liệu nghiên cứu chính thức trên quần thể thai phụ tại Việt Nam.

Công trình khoa học: Nghiên cứu triển khai ghép thận từ người cho tim ngừng đập của Bệnh viện Chợ Rẫy, do tập thể bác sĩ Bênh viện Chợ Rẫy thực hiện.

Được sự ủng hộ từ Bộ Y tế, Bệnh viện Chợ Rẫy đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn chuyên môn hoàn thành xuất sắc đề tài “Ghép thận từ người cho tim ngừng đập” cấp quốc gia (được nghiệm thu năm 2016). Thận từ người cho tim ngừng đập được ghép thành công không chỉ là thành tựu khẳng định vị thế của nền y học Việt Nam mà còn mở ra cơ hội tiếp nối sự sống cho rất nhiều người bệnh đang trong tình trạng suy thân giai đoạn cuối.

Một ca ghép thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy

Dù gặp nhiều khó khăn hơn so với phương pháp ghép thận từ người cho sống hay ghép thận từ người cho chết não song thành quả của kỹ thuật ghép từ người cho tim ngừng đập đã giúp cho người bệnh có thêm nguồn nhận tạng hiến. Đây cũng là giải pháp hiệu quả giúp hạn chế tối đa vấn nạn buôn bán thận – tạng nếu công tác điều phối được triển khai chặt chẽ, khách quan.


Thái Bình
Ý kiến của bạn