Sau Tết, ngày ấy đã lâu rồi, tôi đi chùa Đọi, một thắng cảnh có nhiều di tích văn hóa và lịch sử. Trong tác phẩm Nghệ thuật Việt Nam (1944), học giả Pháp L.Bezacier đã 8 lần đề cập đến những di vật chùa Đọi, trong đó có tư liệu khắc bia cổ nhất miền Bắc và nhiều mô-típ trong tứ điển hình phong cách Đại La. “Long Đội Sơn tự” (chùa Đọi Sơn) ở trên núi Long Đội, thuộc xã Đọi Sơn nổi tiếng về nghề làm trống, huyện Duy Tiên (Hà Nam), cách Phủ Lý 7,5km và cách Hà Nội 57km.
Tại sao gọi là Đọi (núi Đọi, chùa Đọi)? Có người cho là núi trông như cái đọi (cái bát) úp. Xem bia chùa thì thấy chữ Hán ghi là Long Đội (có thể từ đội dân gian hóa thành đọi chăng?). Ở chân bia, thay vì là rùa, có mấy con rồng thời Lý giống như rắn (giao long). Chuyện kể là xưa ở vùng chiêm này, có nhiều giao long đỡ đồi núi lên. Giếng Bùi, một trong hệ thống chín giếng tượng trưng cho chín mắt rồng, thể hiện quan niệm phong thủy về đất linh thiêng.
Chùa Đọi được Lý Nhân Tông cho xây dựng cách đây hơn 800 năm, trên đỉnh một quả đồi gọi là Long Đội Sơn. Đường lên quanh co thoai thoải. Từ trên chùa, khi trời quang mây tạnh, nhìn xuống bốn phía thật là ngoạn mục: non nước, cây cối, làng mạc ruộng đồng điển hình cho một vùng văn hóa lúa nước lâu đời, cày cấy và trồng dâu nuôi tằm. Xin nhắc lại là Nguyên phi Ỷ Lan, mẹ vua Lý Nhân Tông, vốn là một cô gái nông thôn Kinh Bắc, bà được thờ ngay trong chùa.
Chùa trước có tháp Sùng Thiện Diên Linh xây xong năm 1122, cao 13 tầng, có 40 cửa hóng gió, vách chạm nhiều ổ rồng, gác treo chuông vàng. Tầng trên đựng cốt Phật trong hộp ngọc bích. Đỉnh tháp có tiên cô bưng mâm hứng ngọc lộ. Tiếc thay cả chùa lẫn tháp đều bị quân Minh phá vào thế kỷ 15. Chùa xây dựng lại, nhiều lần trùng tu, lại bị Pháp phá trụi trong thời kháng chiến lần thứ nhất. Công việc xây dựng lại được làm một cách thận trọng để giữ được vẻ cổ kính.
Qua bao biến thiên dâu bể, chùa còn giữ được một số di vật quý đời Lý: tượng đầu người mình chim, sáu tượng đá Kim Cương, trang trí bằng đất nung, tượng đồng Di Lặc. Nhưng có lẽ đặc sắc nhất là tấm bia lớn cao 2,40m, rộng 2,24m, một trong những bia cổ nhất của ta. Chữ khắc 2 mặt, bài văn do Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Công Bật vàng sắc soạn. Tiêu đề văn bia khắc trên trán bia do chính vua ngự đề. Văn bia ở mặt trước ca ngợi công đức tài năng, lòng mộ đạo của nhà vua. Bài văn chia làm 16 đoạn. Hai đoạn đầu trình bày về vũ trụ luận, sự ra đời của đạo Phật và giáo lý. Mười một đoạn tiếp giới thiệu vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Đức vua anh minh khi sinh ra đã có nhiều điềm lành, giỏi thi, thư, nhạc, hiểu thấu đạo Phật và phép trị nước. Ngài làm ra các con rối trong các lễ hội lớn như hội múa rối nước ở điện Linh Quang. Lễ hội cũng được tổ chức ngay trong cung điện. Vua còn sáng tác những vũ điệu cho các buổi vũ hội.
Vua cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) để ngày mồng một đến ăn chay. Vua còn điều quan bảo vệ giang sơn (đánh Tổng ở trận Như Nguyệt trên sông Cầu, thuần phục Chiêm Thành...). Đất nước phồn thịnh, nhiều điềm lành xuất hiện: như cây sung nghìn năm mới nở hoa.
Kết thúc văn bia là việc xây dựng tháp Sùng Thiện Diên Linh, do đích thân vua đưa ra và thực hiện ý đồ. Công trình này đề cao Phật giáo và khi khánh thành, triều đình và các hòa thượng đều có mặt, người nghèo được bố thí. Cuối bài, tác giả chúc phúc cho đạo Phật, nhà vua và toàn thiên hạ.
Mặt sau bia có 7 đoạn văn khắc vào các thời điểm khác nhau (tên các vị quan viên, xã thôn trưởng, 1 bài thơ của Lê Thánh Tông, các người làm công đức).
Ngoài bia và chùa, du khách có thể xem Vườn Tháp với rất nhiều tháp, khu tịch điền (vua Lê Hoàn về cày ruộng, khuyến nông, khu chùa Hạ, làng Đọi Tam làm trống (có lăng Trạng Sâm, tổ nghề trống), khu Đền Thánh... Ngày 21 tháng 3 âm lịch, chùa Đọi mở hội, có rước kiệu từ chân núi lên chùa, tế lễ, thi nấu cơm, dệt vải, bơi thuyền, hát giao duyên, múa tứ linh, đánh vật...
Trước khi chúng tôi ra về, vị sư trẻ trụ trì ở chùa tặng cho chúng tôi bản 14 điều răn của Phật, dịch từ một văn bản sưu tầm tại chùa Thiếu Lâm (Trung Quốc). Tôi thấy hay hay, xin chép lại như sau, không dám đảm bảo tính chính xác của xuất xứ và lời dịch:
Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.
Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.
Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị.
Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Tội lỗi lớn nhất của đời người là lừa người dối mình.
Ðáng thương lớn nhất của đời người là tự ti.
Ðáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.
Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe.
Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.
Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.
Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.
An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.
Ghi chú: Về nội dung bia chùa Đọi, bác sĩ Ngô Ngọc Liễu, tác giả Mẫu Ỷ Lan và Đi tìm hồn Việt trong Thăng Long - Hà Nội nêu ý kiến sau đây: Văn bia ca tụng công Lý Nhân Tông (bình Chiêm đánh Tống, xây dựng nhiều chùa). Sự thực thì những thành tựu ấy là công của Ỷ Lan, mẹ vua, lúc đó làm nhiếp chính, vua còn nhỏ quá chưa quyết định triều chính. Các sử gia phong kiến chỉ ghi sự việc theo vương triều chính thức. Nếu đúng như vậy, Hội Phụ nữ Việt Nam cùng các nhà sử học nên nghiên cứu sự kiện chính xác để trả lại cho Vương phi Ỷ Lan vị trí xứng đáng ở các di tích (chùa Một Cột, Văn Miếu...).
Nhà văn hóa Hữu Ngọc