Ngày môi trường thế giới 5/6: Xây dựng thuật toán giám sát chất lượng nước biển

05-06-2025 09:09 | Xã hội
google news

SKĐS - Để giám sát môi trường biển, Th.S Chu Xuân Huy, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã xây dựng thành công thuật toán theo dõi chất lượng nước biển, cảnh báo ô nhiễm môi trường biển theo thời gian thực.

Tạo "màng chắn" ngăn trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạngTạo 'màng chắn' ngăn trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạng

SKĐS - Tình trạng xâm hại trẻ em trên không gian mạng gây tổn thương nghiêm trọng về thể chất và tâm lý cho trẻ. Các cơ quan chức năng triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngày Môi trường Thế giới 5 tháng 6 năm 2025 do Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) phát động với chủ đề "Chống ô nhiễm nhựa" (Beat Plastic Pollution), nhằm kêu gọi cộng đồng toàn cầu hành động quyết liệt để giải quyết rác thải nhựa - một trong những thách thức môi trường cấp bách nhất hiện nay. Đây là lần thứ hai trong vòng ba năm (2023-2025) chủ đề này được lựa chọn, thể hiện rõ tính ưu tiên toàn cầu trong kiểm soát ô nhiễm nhựa, đồng thời tái khẳng định cam kết sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng cao khả năng thích ứng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng cường hợp tác khu vực, quốc tế, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.

Theo báo cáo của UNEP, mỗi năm thế giới sản xuất khoảng 430 triệu tấn nhựa, phần lớn là sản phẩm dùng một lần, gây ô nhiễm đại dương và ảnh hưởng hệ sinh thái, sức khỏe con người.. Tại Việt Nam, ước tính phát sinh khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa mỗi năm, nhưng chỉ khoảng 27% được tái chế, nhưng chỉ 27% được tái chế, phần còn lại gây lãng phí và rủi ro môi trường.

Ngày môi trường thế giới 5/6: Xây dựng thuật toán giám sát chất lượng nước biển- Ảnh 2.

Dọn sạch rác, giữ môi trường biển trong lành để bảo vệ hệ sinh thái.

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều chính sách, chương trình, chiến lược quan trọng nhằm tăng cường quản lý chất thải nhựa và giảm thiểu ô nhiễm nhựa, điển hình như: Luật Bảo vệ môi trường nâm 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành với quy định cụ thể về giảm thiểu, phân loại, thu gom, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa; thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua Chương trình Đối tác hành động quốc gia về nhựa, tăng cường nghiên cứu khoa học, triển khai mô hình hợp tác công - tư trong quản lý rác thải nhựa hướng tới kinh tế tuần hoàn; tích cực tham gia đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa (INC) và nhiều sáng kiến quốc tế khác. 

Để giám sát môi trường biển, Th.S Chu Xuân Huy, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã xây dựng thành công thuật toán theo dõi chất lượng nước biển, cảnh báo ô nhiễm môi trường biển theo thời gian thực.

Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường biển ngày càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát, việc giám sát liên tục, chính xác các chỉ số chất lượng nước là yêu cầu cấp thiết. Mới đây, các nhà khoa học Việt Nam đã làm chủ và phát triển thành công thuật toán phân tích ảnh viễn thám để theo dõi chỉ số Chlorophyll-a (Chl-a) – một thông số then chốt phản ánh sức khỏe của môi trường nước biển. Thành tựu này không chỉ mở ra một hướng tiếp cận hiện đại, hiệu quả mà còn tiết kiệm chi phí cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường biển ở nước ta.

Chlorophyll-a là sắc tố quang hợp chính của thực vật phù du – những sinh vật cực nhỏ sống trôi nổi trong cột nước, đóng vai trò nền tảng trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái biển. Nồng độ Chl-a cao thường đồng nghĩa với mức độ phú dưỡng cao, làm gia tăng nguy cơ phú dưỡng, suy thoái môi trường nước. Do đó, theo dõi diễn biến nồng độ Chl-a theo không gian và thời gian là công cụ quan trọng giúp nhận diện các vùng nước có dấu hiệu ô nhiễm, hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch và khai thác bền vững tài nguyên biển.

Tuy nhiên, việc đo đạc chỉ số Chl-a theo phương pháp truyền thống dựa vào lấy mẫu nước tại hiện trường thường tốn nhiều thời gian, nhân lực, chi phí cao và khó mở rộng phạm vi theo dõi. Trong khi đó, công nghệ viễn thám – với khả năng thu nhận thông tin môi trường từ xa thông qua ảnh vệ tinh – đang nổi lên như một giải pháp hiện đại, cho phép quan trắc diện rộng, liên tục và hiệu quả.

Hiện nay, ảnh màu đại dương từ vệ tinh đã được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để theo dõi nhiều thông số quan trọng như chất lơ lửng (SPM), Chl-a hay chất hữu cơ hòa tan màu (CDOM). Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng này.

"Nghiên cứu, phát triển thuật toán Chlorophyll-a cho ảnh VNREDSat-1 và tương đương" là sản phẩm phối hợp giữa Viện Công nghệ vũ trụ – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (nay thuộc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam) và Viện Hóa sinh Hữu cơ Thái Bình Dương – Viện Hàn lâm Khoa học Nga.

Sử dụng dữ liệu ảnh vệ tinh để giám sát môi trường biển

Dưới sự chủ nhiệm của ThS. Chu Xuân Huy, nhóm nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu ảnh vệ tinh từ hai nguồn chính: VNREDSat-1 – vệ tinh viễn thám đầu tiên của Việt Nam, và Sentinel-2 – vệ tinh do Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) cung cấp. Hai dòng vệ tinh này có nhiều điểm tương đồng về dải phổ, độ phân giải không gian và đặc biệt là tính mở trong truy cập dữ liệu, rất phù hợp để phát triển và hiệu chỉnh thuật toán theo dõi Chl-a phục vụ nhu cầu trong nước.

Để việc ứng dụng thực sự hiệu quả, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển thuật toán "địa phương hóa", tức là phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng biển Việt Nam. Bởi lẽ, theo ThS. Huy, mỗi vùng biển có điều kiện hóa – lý và quang học khác nhau, ảnh hưởng đến cách ánh sáng phản xạ và bị hấp thụ, từ đó ảnh hưởng đến kết quả phân tích ảnh vệ tinh. Các thuật toán phổ biến trên thế giới như chuỗi OCx của NASA thường chỉ phát huy tác dụng tốt ở một số khu vực nhất định.

Ngày môi trường thế giới 5/6: Xây dựng thuật toán giám sát chất lượng nước biển- Ảnh 3.

Phân bố hàm lượng Chl-a tính từ ảnh viễn thám.

Do đó, nhóm đã tiến hành xây dựng thuật toán thực nghiệm OC3, được điều chỉnh và hiệu chỉnh thông số dựa trên dữ liệu khảo sát thực tế tại các vùng biển Việt Nam – đặc biệt là khu vực đầm phá Thừa Thiên – Huế, một hệ sinh thái tiêu biểu ở miền Trung.

Nhóm đã thực hiện nhiều đợt khảo sát thực địa tại vùng ven biển Thừa Thiên – Huế và một chuyến khảo sát xa bờ bằng tàu nghiên cứu Viện sĩ Oparin (Nga). Tổng cộng, 74 điểm lấy mẫu đã được thực hiện, trong đó 52 điểm dùng để xây dựng mô hình và 22 điểm để kiểm tra độ chính xác.

Kết quả phân tích cho thấy, thuật toán OC3 khi áp dụng lên ảnh VNREDSat-1 và Sentinel-2 đều cho hệ số xác định (R²) cao, lần lượt trên 0,7 và 0,8 – cho thấy khả năng dự đoán tốt nồng độ Chl-a từ ảnh vệ tinh. Quan trọng hơn, phân bố Chl-a theo ảnh viễn thám có sự tương đồng rõ rệt với dữ liệu thực đo, giúp xác thực độ tin cậy của thuật toán.

Bản đồ phân bố Chl-a cũng cho thấy đặc trưng sinh thái rõ rệt của khu vực: nồng độ Chl-a thấp ở vùng nước sát bờ, cao hơn ở khu vực cửa sông và các vùng nuôi trồng thủy sản – những nơi giàu chất dinh dưỡng. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đó, đồng thời góp phần bổ sung dữ liệu mới cho khu vực miền Trung, vốn còn hạn chế về nghiên cứu chuyên sâu.

Không dừng lại ở việc xây dựng mô hình, nhóm nghiên cứu còn phát triển công cụ phần mềm trên nền tảng mã nguồn mở, giúp tự động hóa quá trình xử lý ảnh vệ tinh để tính toán Chl-a. Nhờ đó, quy trình phân tích trở nên nhanh chóng, giảm thiểu thao tác thủ công và có thể áp dụng linh hoạt cho các khu vực ven biển khác.

Ngoài ra, bộ bản đồ chuyên đề về phân bố Chl-a tại Thừa Thiên – Huế là nguồn dữ liệu quý, có thể hỗ trợ đắc lực cho chính quyền địa phương trong quy hoạch phát triển, kiểm soát ô nhiễm, phòng ngừa hiện tượng thủy triều đỏ, hay theo dõi tác động của các hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Việc phát triển thành công thuật toán theo dõi Chlorophyll-a từ ảnh vệ tinh đánh dấu bước tiến quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa công tác giám sát môi trường biển tại Việt Nam. Bằng cách kết hợp dữ liệu vệ tinh, khảo sát thực địa và công cụ phần mềm, nghiên cứu đã tạo ra một giải pháp khả thi, chính xác và tiết kiệm cho các cơ quan quản lý, đồng thời nâng cao năng lực làm chủ công nghệ của các nhà khoa học trong nước.

Với tiềm năng mở rộng ứng dụng ra các vùng biển khác, công nghệ này sẽ góp phần đáng kể vào việc giám sát và bảo tồn hệ sinh thái biển, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững khu vực ven biển Việt Nam. Đây cũng là một minh chứng điển hình cho thấy khoa học – công nghệ, khi được đầu tư đúng hướng, hoàn toàn có thể trở thành lực đẩy thực chất cho công tác bảo vệ môi trường trong kỷ nguyên số.

Khởi tố vụ án xả thải gây ô nhiễm môi trường tại Hà NộiKhởi tố vụ án xả thải gây ô nhiễm môi trường tại Hà Nội

SKĐS - Công an TP Hà Nội vừa khởi tố vụ án để điều tra làm rõ hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về môi trường xảy ra tại huyện Gia Lâm.


Tô Hội
Ý kiến của bạn