Thoáng thế mà lại đến ngày 1/4, ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Những ngày này, càng làm chúng ta nhớ đến người nhạc sĩ tài năng trác Việt. Tôi có nghe anh kể ở đâu đó về người em kết nghĩa của Trịnh Công Sơn. Tôi có biết anh bạn người Đức này. Anh còn có tên Việt là Trịnh Công Long. Sinh năm Rồng (1964)… Câu chuyện ấy hư thực ra sao? Nhà văn Nguyễn Quang Sáng bảo: “Trịnh Công Sơn không chỉ là nhà thơ xuất sắc, mà anh còn là một nhà thơ lớn”. Anh có đồng ý như vậy không?
VŨ THỊ HẢI (Yên Mô - Ninh Bình)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa
Câu hỏi của chị lại làm tôi nhớ đến một kỷ niệm với với F. Gerke, người em kết nghĩa của Trịnh Công Sơn. Chuyện này tôi cũng đã kể ở đâu đó rồi.
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ có nhiều người hâm mộ nhất. Đi đến đâu, tôi cũng thấy người ta hát ca khúc của anh. Nhạc Trịnh không chỉ ngự trị khắp mọi xó xỉnh của xứ Việt này mà còn len lỏi đến tận những ngóc ngách sâu thẳm nhất trong cõi tinh thần của người Việt ở Hải ngoại. Dường như ở đâu, Trịnh Công Sơn cũng có người yêu mến. Nhưng có lẽ cho đến tận lúc giã biệt cõi đời này, nhạc sĩ cũng không biết anh có một khán giả ngoại quốc còn say anh cuồng nhiệt hơn bất cứ người hâm mộ nào. Đó là vị giáo sư trẻ người Đức Frank Gerke.
Tôi biết Frank Gerke cũng rất tình cờ. Dịp tôi qua Đức, anh là người phiên dịch cho tôi. Theo sự bố trí của bạn, Frank Gerke sẽ cùng tôi đến thăm một số thành phố. Còn một tuần đầu, người dịch cho tôi là chị Grit Seidel, một cô gái trẻ, là nữ phiên dịch tiếng Nga ở Bộ Ngoại giao Đức. Grit Seidel nói tiếng Nga như một người Nga. Chúng tôi đến thăm nhà Gớt, thăm Trung tâm Xuất bản sách báo Frank Fuork, rồi gặp gỡ các Tổng biên tập của mấy tờ báo tư nhân. Buổi chiều cuối cùng ở thành phố này, chúng tôi xem phim rồi Grit Seidel bàn giao công việc cho Frank Gerke. Theo đúng lịch trình, 5 giờ chiều, tôi và Frank Gerke lên tàu đi Weima. Nhưng 4 giờ vẫn chưa liên lạc được với F. Gerke. Grit Seidel bắt đầu thấy lo lắng: “Tôi đã điện cho Trung tâm Báo chí, rồi điện về Trường đại học Bonn. Chẳng ai biết F. Gerke ở đâu cả. Hay anh ấy bị tai nạn rồi...”.
Người Đức làm việc rất chuẩn xác. Nếu lỡ hẹn thì chỉ có thể bị tai nạn. Nhưng F. Gerke không hề lỡ hẹn. Anh đã chờ chúng tôi từ 3 rưỡi chiều ở sảnh khách sạn. Đó là một người đàn ông cao lớn, trắng trẻo, tóc đen mướt, vai đeo chiếc ba lô to xù. Tay lại xách theo cây đàn ghi ta. Trên ngực áo đen là mảnh băng đen. Mảnh băng khâu thẳng vào áo. Hóa ra nhà anh mới có tang. Tôi muốn nói với anh mấy lời chia buồn...
- Tôi để tang anh Sơn đấy. Tôi là em của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
F. Gerke bắt đầu câu chuyện bằng một giọng trầm trầm. Tôi kinh ngạc khi thấy anh nói tiếng Việt rất chuẩn, lại kinh ngạc hơn khi biết Trịnh Công Sơn lại có người nhà là một ông Tây mắt xanh mũi lõ ở bên này...
- Không, anh Sơn chẳng có họ hàng gì với tôi cả, F. Gerke thanh minh - Anh ấy không chắc đã nhớ được tôi. Nhưng tôi thì rất yêu anh ấy và lúc nào cũng nhớ anh ấy...
Con tàu đã rời ga Frank Four từ lúc nào rồi. Bồng bềnh hai bên cửa sổ là những ngôi nhà và những vườn cây, những cánh đồng lúa mì xanh ngăn ngắt. Thiên nhiên Đức đang tự vẽ ra những bức tranh tuyệt vời của Lêvitan. Nhưng Frank Gerke dường như không quan tâm lắm đến phong cảnh thiên nhiên luôn biến ảo suốt hai bên cửa sổ toa tàu.
Frank Gerke - Trịnh Công Long - “Ông Tây” mang họ Trịnh đang “phiêu” cùng nhạc Trịnh Công Sơn.
- Khi được tin anh Sơn mất, tôi đang dạy Lịch sử Việt Nam ở Trường đại học Bonn. Vợ tôi báo cho tôi qua điện thoại. Nhưng tôi không tin. Vì đó là ngày cá tháng Tư. Ai tin được cái điều vô lý như thế? Tôi điện về Việt Nam. Hóa ra anh Sơn đi thật. Thế là tôi bỏ dạy, về nhà. Tôi ốm lơ ốm lửng một tuần liền. Người sút đến 3 ký...
- Rất cảm ơn anh đã hết lòng yêu mến một nhạc sĩ tài năng của chúng tôi. Tôi cũng yêu nhạc Trịnh Công Sơn lắm. Nhưng rất tiếc là chưa có dịp nào được tiếp xúc với anh ấy...
- Thế thì đó là một thiệt thòi của anh - F. Gerke khẳng định - Khi biết anh sang đây, tôi định điện cho ông Nguyễn Quang Sáng, hỏi xem anh là người như thế nào. Nhưng rồi thôi. Tôi muốn tự tìm hiểu, khám phá. Anh biết yêu nhạc Trịnh Công Sơn, như thế có nghĩa anh là người tử tế...
F. Gerke lại cười. Còn tôi thì kinh ngạc. Tôi chưa thấy ai lại mang nhạc Trịnh ra làm thước đo, đánh giá con người.
- Anh gặp ông Sơn trong trường hợp nào?
- Lâu rồi. Khi ấy, tôi còn ở Tây Nguyên, làm phiên dịch cho một công ty cà phê của Đức đặt văn phòng ở Ban Mê Thuột. Tôi nghe nhạc anh Sơn và thấy mê. Nhạc anh Sơn rất đặc biệt. Anh có để ý không? Bài nào cũng chỉ phất phơ có mấy nét thôi, cứ như là nhạc của trẻ con ấy. Nhưng nghe là nhớ ngay. Trịnh Công Sơn đã đạt được đến độ cao nhất của nghệ thuật. Đó là sự giản dị. Tôi yêu nhạc anh Sơn, rồi tìm đến thăm anh ấy. Thế rồi anh em biết nhau. Đơn giản thế thôi mà...
Nói rồi, F. Gerke ôm đàn hát. Anh hát hay lạ lùng. Lại bắt chước y hệt Trịnh Công Sơn. Đến nỗi, nhắm mắt lại, ta có thể nhầm tưởng là Trịnh Công Sơn đang hát.
- Tôi có cái băng của Trịnh Công Sơn. Chính anh Sơn đã dạy tôi hát đấy. Tôi hát theo băng mà - F. Gerke nói - Anh bảo chỉ có Khánh Ly hát mới ra Trịnh Công Sơn ư? Anh nhầm đấy. Người hát hay nhất nhạc Trịnh chính là Trịnh Công Sơn. Sau Trịnh mới đến Khánh Ly. Sau Khánh Ly là không còn ai nữa. Hồng Nhung chỉ hát tàm tạm được một đôi bài. Còn các ca sĩ khác thì không thể chấp nhận được. Trịnh Công Sơn có một chùm ca khúc viết tặng Hồng Nhung. Nhưng ngay chính chùm ca khúc dành cho riêng mình ấy, Hồng Nhung hát vẫn không bằng được Khánh Ly. Thế mới đau chứ. Còn Thanh Lam thì chán lắm. Mặc dù giọng cô ấy rất tốt. Nhưng cô ấy cứ thích hú hét. Mang Trịnh Công Sơn ra hú thì bằng bóp cổ anh ấy rồi...
Frank Gerke quay ra cửa sổ. Nhưng hình như anh chẳng nhìn thấy gì.
- Trịnh Công Sơn là một nửa âm nhạc Việt Nam. Mặc dù nhạc Cách mạng của các anh rất hay. Hầu như bài nào cũng hay. Khỏe khoắn, hùng tráng. Nhưng đó là nhạc hội, nhạc vui. Nhạc cho tất cả mọi người. Hầu hết nhạc sĩ các anh đều viết cho đám đông. Người ta hát khi vui, hát ở chỗ đông người. Trịnh Công Sơn không phải không làm được những ca khúc cho các đám hội. Anh đã từng có Nối vòng tay lớn. Nhưng anh không dành nhiều tâm huyết cho những đám đông. Hình như anh ấy biết các nhạc sĩ khác tài hơn anh ấy ở thể loại nhạc này. Bởi thế, hầu hết nhạc anh Sơn là nhạc chỉ dành cho một người thôi. Khi nào buồn, khi nào cô đơn đến tuyệt vọng mà không còn biết nương tựa vào đâu nữa, người ta tìm về với Trịnh. Trịnh sẽ đón họ, nâng đỡ an ủi họ. Trịnh còn có riêng một bài hát về nỗi tuyệt vọng: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng...”. Các bài khác hầu như cũng tương tự thế. Vì vậy, tôi mới bảo Trịnh Công Sơn là một nửa âm nhạc Việt Nam. Tất nhiên, nếu chỉ có Trịnh Công Sơn thì âm nhạc Việt Nam cũng méo mó và ốm yếu, nhưng nếu chỉ có âm nhạc Cách mạng mà thiếu Trịnh Công Sơn thì nền âm nhạc của các anh vẫn chưa hoàn thiện, vì nó vẫn thiếu một mảng riêng tư rất cần thiết cho đời sống con người. Nhạc Trịnh hay lắm. Hay một cách thấm thía. Lời ca của anh ấy rất đẹp. Đẹp như thơ...
- Còn hơn thơ ấy chứ - Tôi góp thêm - Thậm chí có những lời ca của anh ấy, bọn thi sĩ chúng tôi không viết nổi đâu...
- Nhưng cũng không nên vì thế mà lại bảo anh ấy là một nhà thơ lớn. Ông Nguyễn Quang Sáng còn nói thế đấy? Nói thế là nói liều đấy. Mà hình như rượu nói chứ không phải ông Sáng nói. Ca từ của Trịnh Công Sơn chỉ đẹp khi nó nằm trong giai điệu của Trịnh thôi, tách ra khỏi âm nhạc, để nó đứng độc lập như một bài thơ thì nó đâu có phải thơ. Trịnh Công Sơn có làm thơ đâu. Anh ấy viết nhạc đấy chứ. Tôi rất yêu nhạc Trịnh. Yêu như một tín đồ của anh ấy. Nhưng cũng phải thành thật mà nói rằng, nhạc Trịnh nghe lẻ từng bài thì rất hay. Nhưng nghe cả một cuộn băng thì lại thấy mệt vì đơn điệu. Ông Văn Cao của các anh đa dạng hơn nhiều, phong phú hơn nhiều, mặc dù so với Trịnh Công Sơn, ông ấy viết ít hơn...
F. Gerke đã thực sự hiện nguyên hình một con ma xó. Anh ứng tác thơ lục bát bằng tiếng Việt. Rồi anh hát chèo, hát dân ca quan họ và ca cải lương, ca bài chòi. Thật khó mà hình dung F. Gerke lại là một người Đức. Nếu cứ nhắm mắt nghe anh nói thì ta có thể lầm tưởng mình đang nhậu với một anh Hai nào đó ở Sài Gòn...
- Anh biết tôi học tiếng Việt ở đâu không? F. Gerke hỏi - Học ở quán Mộc Tồn đấy. Cánh bợm nhậu dạy tôi. Rồi tôi nói tùm lum tà la...
Hôm cuối cùng tôi ở nước Đức, bạn bè người Việt ở Nhà văn hóa Việt Nam tổ chức cuộc gặp gỡ rồi sau đó là một bữa tiệc thịt dê. Thịt dê “đánh” từ Việt Nam sang. Tưng bừng chả kém gì Hà Nội. Trong men rượu ngà ngà, Frank Gerke đề nghị mỗi người góp một câu thơ theo giọng Bút Tre để “Chào mừng nhà thơ Trần Đăng Khoa” rồi anh hào hứng mở đầu:
- Yêu nhau, góp tí máu dê - Mừng anh Văn Khỏa từ quê sang đầy... Văn Khỏa nghĩa là Trần Đăng Khoa đấy...
Thế rồi nhà thơ Phạm Kỳ Đăng, nhà văn Nguyễn Văn Thọ, vợ chồng nghệ sĩ Tôn Nữ Nguyệt Minh, nhà nghiên cứu, dịch giả Trương Hồng Quang..., nói như F. Gerke, mỗi người góp một tí “máu dê”, thành một bài thơ khá dài, rồi F. Gerke kết thúc:
- Ra về hãy nhớ lời thề - Yêu nhau cứ phải thịt dê tương gừng - Em phừng phừng, tớ phừng phừng - Bố thằng nào dám lẫy lừng vào đây... - F. Gerke cười khục khục - Tôi cứ kết hợp cụ Đồ Chiểu với thi sĩ Nguyễn Duy ông anh tôi cho có tính dân tộc.
Lúc tiễn tôi ra sân bay về nước, F. Gerke nhờ tôi chuyển lời thăm của anh tới nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy và nhạc sĩ Bảo Phúc. Rồi anh đọc câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng mà anh rất khoái: “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi - Đi lên đi xuống đã đời du côn”. Anh thấy tôi có “du côn” không, anh Khoa? - F. Gerke quay lại hỏi tôi bằng một giọng đặc sệt Sài Gòn - Anh Sơn bảo ở trong tôi có đến 99% là dòng máu Việt, còn Đức chỉ có 1% thôi. Tôi thì ngờ, hình như trong tôi không có đủ 1% dòng máu Đức - F. Gerke cười hô hố - Tôi đang phấn đấu trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Về già, tôi sẽ đưa vợ con sang Việt Nam ở. Chúng tôi sẽ mua một căn nhà lá nào đó ở một miệt vườn, rồi làm một ông già Nam Bộ. Thật đấy: “Qua nghĩ chán, sống nghĩa là xả láng - Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu - Nhà lá bùng binh che lá dừa lá mía - Nón lá qua loa nhưng nhậu phải đều đều...”.