1. Bước phát triển vượt bậc giai đoạn sau hòa bình lập lại ở miền Bắc (1955 - 1975)
Giai đoạn 1955 - 1975, miền Bắc bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - tiến vào thời kỳ khôi phục kinh tế và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ, dồn sức chi viện cho miền Nam, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hòa nhập vào sự nghiệp cách mạng của đất nước, ngành Y tế nói chung và ngành Dược nói riêng cũng có những bước phát triển đáng kể, cải tạo ngành Dược tư doanh, phát triển ngành Dược quốc doanh.
Tại Hội nghị Cán bộ y tế toàn ngành được tổ chức tại Hà Nội ngày 27/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới Hội nghị, trong đó Người căn dặn cán bộ y tế phải thật thà đoàn kết; Thương yêu người bệnh, thực hiện "Lương y như từ mẫu"; Xây dựng một nền y học của ta, dựa trên nguyên tắc: Khoa học dân tộc, đại chúng, chú trọng nghiên cứu và phối hợp Đông Tây y.
Cũng trong năm này, Bộ Y tế ban hành Nghị định số 615/Z10-ND4-3A về tổ chức bộ máy của Bộ Y tế, Vụ Bào chế dược phẩm cùng giúp lãnh đạo Bộ chỉ đạo công tác Dược với nhiệm vụ chính là sản xuất và cung ứng thuốc.
Trên miền Bắc lúc này có hai hệ thống Dược là: Hệ thống Dược thuộc Bộ Y tế (gồm Xưởng Bào chế Trung ương và Kho thuốc Trung ương) và hệ thống Dược thuộc Bộ Công thương (sau này là Bộ Nội thương) cùng các nhà thuốc tư nhân, đại lý tân dược.

Đào tạo nhân lực cho ngành Dược luôn được chú trọng trong mọi giai đoạn phát triển.
Năm 1961, miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965). Qua 5 năm phong trào thi đua sôi nổi và xuất hiện những đơn vị xuất sắc như: Xí nghiệp Duyên Hải (Hải Phòng), Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong (Quảng Bình), Trường cấp II Bắc Lý (Hà Nam)... và phong trào thi đua "Ba nhất" trong quân đội, phong trào phấn đấu đạt danh hiệu Tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa... Ngành Dược cũng có những bước tiến vượt bậc.
Sản xuất thuốc phát triển, giá trị tổng sản lượng năm 1961 tăng 25 lần so với năm 1955, trong khi tổng số cán bộ công nhân viên chỉ tăng 4 lần. Quá trình sản xuất đã hợp tác hóa, chuyên môn hóa, như hình thành các xưởng hóa dược, xưởng đông dược, xưởng thủy tinh bên cạnh các xưởng sản xuất thuốc. Trước đây, việc sản xuất thuốc nhằm vào thị hiếu của nhân dân.
Các sản phẩm dễ sản xuất như rượu bổ chiếm đến 40% tổng số sản phẩm thì đến năm 1961, Bộ Y tế chỉ đạo, tập trung sản xuất các thuốc đáp ứng yêu cầu phòng, chữa bệnh (chiếm 80% số sản phẩm), tăng cường sản xuất các thuốc từ nguyên liệu trong nước, sản xuất nguyên liệu chiết xuất hoạt chất tổng hợp hóa học hay sinh học, cơ khí hóa và hiện đại hóa dây chuyền sản xuất, tạo thuận lợi cho người dùng như khắc chữ trên viên thuốc.
Về hóa dược, đã sản xuất được acid benzoic, natri benzoat, các phosphat và glycophosphat, điều chế terpin (từ tinh dầu thông), palmatin từ rễ hoàng đằng, dextran bằng tổng hợp vi sinh.
Đã sản xuất đại trà các sản phẩm: Viên tô mộc (chữa tiêu chảy), viên bạch đới (chữa khí hư), viên và cao ích mẫu (điều kinh), viên iodosofa (chữa bướu cổ), viên lô đảm (nhuận tràng), viên rutin C (làm liền mao mạch), cốm phytin (thuốc bổ), subtilis (chống nhiễm khuẩn), các loại filatov (tiêm, uống)...
Song song với việc sản xuất thuốc, nghiên cứu sản xuất các loại vaccine, huyết thanh phòng chống dịch cũng được phát triển. Thời điểm này, nước ta đã chế được vaccine tả, thương hàn, ho gà, uốn ván, dại, đậu mùa, bạch hầu; đã sản xuất được các loại vaccine đa liên như uốn ván, tả, thương hàn... và nghiên cứu sản xuất thành công vaccine sabin (phòng bại liệt), vaccine BCG chết (phòng bệnh lao)...
Hoạt động kiểm tra chất lượng thuốc ngày càng chặt chẽ, khoa học. Việc tuân thủ các quy trình sản xuất, thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm thuốc đã được coi trọng. Đào tạo nhân lực Dược đã vượt qua nhiều khó khăn và ngày càng được coi trọng. Trường Đại học Dược khoa Hà Nội và Trường Trung cấp Dược Hải Hưng được thành lập sau khi tách khoa Dược ra khỏi trường đại học và trung cấp dược.
Giai đoạn 1961-1965 là giai đoạn ngành Dược có sự phát triển mới, mang một sắc thái mới, một khí thế mới để bước vào giai đoạn nhiều khó khăn: Chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thống nhất nước nhà.
Đầu năm 1968, Hội nghị Dược toàn miền Nam lần đầu tiên tại vùng giải phóng đã được tổ chức, đánh dấu một bước trưởng thành và kiện toàn tổ chức phù hợp tình hình mới. Tuy cuộc càn lớn của Mỹ nguỵ có gây tổn thất nặng nề về cơ sở và thuốc men nhưng tình hình đã được kịp thời củng cố và ổn định dần.
Mạng lưới sản xuất, phân phối thuốc ngày càng vững chắc, mở rộng đến 100% huyện, xã, đưa cơ số thuốc chiến thương đến tận các tuyến, ở đâu có đánh phá là ở đó có thuốc kịp thời cứu chữa nạn nhân. Không chỉ thế, chất lượng thuốc cũng được nâng cao, công tác trồng dược liệu phát triển mạnh, quy mô đào tạo được mở rộng...

Ngành Dược luôn coi trọng phát triển song hành thuốc Đông y và Tây y.
Năm 1970, Bộ Y tế chủ trương phân tuyến sản xuất rõ rệt: Các xí nghiệp dược phẩm Trung ương sản xuất thuốc từ nguyên liệu nhập khẩu, các dược phẩm có kỹ thuật pha chế cao, giảm các loại thuốc nước. Chú trọng sản xuất các loại thuốc cần cho chiến trường. Các xí nghiệp dược phẩm địa phương sản xuất dược phẩm dựa trên khai thác các nguồn nguyên liệu tại chỗ, vừa cung cấp cho địa phương, vừa hỗ trợ tỉnh bạn, theo kế hoạch của Bộ Y tế.
Tuyến huyện pha chế đông dược cao, đan, hoàn, tán. Tuyến xã pha chế các loại thuốc Nam (thuốc sắc). Khoa Dược bệnh viện tự pha chế các loại dịch truyền và các thuốc pha chế trên cơ sở nguyên vật liệu do Bộ Y tế cấp. Năm 1975, sau khi tiếp quản thành phố Sài Gòn, qua khảo sát các cơ sở dược tại miền Nam, Bộ Y tế nhận thấy nhiều vấn đề bất cập và có kế hoạch cải tạo, xây dựng ngành Dược.
Công cuộc này được thực hiện từ tháng 5/1975 đến hết năm 1980 với chủ trương Nhà nước sớm nắm giữ toàn ngành sản xuất và phân phối dược phẩm, xây dựng mạng lưới y tế phù hợp với các khu dân cư, cải tạo các cơ sở y tế tư nhân thành các cơ sở y dược quốc doanh...
Trong giai đoạn 1955 - 1975, ngành Dược đã tập trung phát triển toàn diện gồm:
Mở rộng, xây dựng chương trình đào tạo dược sĩ: Không chỉ số lượng dược sĩ được tăng lên mỗi năm mà hình thức đào tạo ngoài chính quy còn có hệ hàm thụ, chuyên tu. Mặc dù điều kiện học tập còn khó khăn, sinh viên phải ăn, ở tại nơi sơ tán nhưng chất lượng sinh viên tốt nghiệp không hề giảm sút.
Thành lập các xí nghiệp dược phẩm và cơ quan chuyên ngành: Năm 1956 thành lập Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương sản xuất thuốc tiêm, thuốc viên, thuốc nước, thuốc filatov... được tiêu thụ rộng rãi và được nhân dân tín nhiệm. Đầu năm 1957, thành lập Phòng kiểm nghiệm trực thuộc Bộ Y tế với 3 tổ chuyên môn Độc chất, Thực phẩm, Thử thuốc. Tháng 6/1957 cũng thành lập Hội Đông y sau này là Hội Y học cổ truyền Việt Nam.
Năm 1961 thành lập Viện Dược liệu với nhiệm vụ nghiên cứu dược liệu, chủ yếu là dược liệu trong nước để phục vụ sản xuất thuốc, kiểm nghiệm thuốc và độc chất, nghiên cứu thuốc và hướng dẫn việc trồng cây thuốc, góp phần đào tạo và bổ túc cán bộ hoạt động trồng dược liệu.
Ngoài ra, nhiều cơ quan khác cũng được hoàn thiện như: Cục Phân phối dược phẩm, Đại học Dược Hà Nội được tách từ Đại học Y Dược khoa Hà Nội, thành lập Cục Dược chính...
Từng bước hoàn thiện văn bản chính sách phù hợp tình hình thực tế: Nội dung các văn bản này đều hướng đến xây dựng ngành Dược như: Hướng dẫn thi hành điều lệ tạm thời cho phép hành nghề chữa bệnh, bán thuốc; Danh mục các thuốc do các hiệu thuốc tây và phòng bào chế tư nhân sản xuất bị cấm lưu hành và các sản phẩm được phép lưu hành; Thông tư về hành nghề chữa bệnh Đông y và bán thuốc Đông y; Khai thác và phát triển cây thuốc, động vật làm thuốc...
Không ngừng thực hiện công tác nghiên cứu khoa học: Các nghiên cứu khoa học của Viện Dược liệu, Trường Đại học Dược khoa Hà Nội tập trung vào đề tài sản xuất dược liệu, phục vụ sản xuất, chiến đấu và các điều tra cơ bản phục vụ học tập, giảng dạy...
Chi viện cho tiền tuyến: Trong những năm tháng chiến tranh, ngành Dược không chỉ cung cấp thuốc mà còn cử nhiều cán bộ, dược sĩ tham gia Ban dân y miền Nam để phục vụ chiến đấu, Trường Đại học Dược khoa Hà Nội cũng đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ và sinh viên phục vụ các địa phương chiến sự ác liệt khi Mỹ ném bom ác liệt ở miền Bắc.
2. Ngành Dược thời kỳ trước đổi mới (1976- 1985)
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV (năm 1976) chỉ rõ: Sử dụng rộng rãi nguồn thuốc trong nước, đẩy mạnh sản xuất thuốc tân dược và chế biến thuốc nam; Xây dựng và phát triển nền y học và dược học dân tộc; thừa kế và phát huy những kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc ta về chữa bệnh và làm thuốc, kết hợp với kinh nghiệm của y học và dược học thế giới, tiến tới thực hiện chính sách chữa bệnh không phải trả tiền thuốc cho toàn thể nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, ngành Dược tiếp tục phát triển và được xây dựng ngày một vững chắc với sự hoàn thiện các văn bản chính sách, đào tạo đội ngũ dược sĩ, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, xuất khẩu thuốc (đặc biệt là cao sao vàng)...
Trong thời gian này, nhiều cây thuốc quý, di thực đã được đưa vào trồng tại Đà Lạt và sau đó ở Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Tây Quảng Nam - Đà Nẵng. Một số cây phát triển ổn định như sinh địa, vân mộc hương, xuyên khung, bạch chỉ... Bên cạnh đó còn phát triển một số vùng dược liệu tập trung, trồng bạc hà ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Bến Tre, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh; Trồng atiso ở Lâm Đồng; Trồng tràm ở Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang.

Vùng trồng dược liệu ngày càng được mở rộng, đảm bảo chất lượng và số lượng để sản xuất thuốc Đông dược.
Năm 1981, Hội Dược học Việt Nam tổ chức "Hội nghị tổng kết khoa học kỹ thuật dược toàn quốc lần thứ 2" tại TP. Hồ Chí Minh, khẳng định công tác cải tạo ngành Dược tư bản tư doanh ở miền Nam đã kết thúc, nhiều biện pháp được tiến hành để củng cố, tăng cường mạng lưới phân phối dược phẩm quốc doanh, đẩy mạnh công tác quản lý thị trường để khắc phục các tiêu cực trong việc mua bán thuốc không hợp pháp ở thị trường tự do như người bán thuốc không có chuyên môn về dược; nguồn gốc xuất xứ thuốc không rõ ràng; chất lượng thuốc không đảm bảo.
Bên cạnh đó thành lập các công ty thu mua các thuốc ngoại nhập do người thân ở nước ngoài gửi về... Kiên quyết dẹp bỏ mua bán thuốc ở chợ trời, buôn lậu, lưu hành thuốc giả, thuốc không đảm bảo chất lượng.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu thuốc còn căng thẳng, người bệnh phải tự mua thuốc trên thị trường tự do vì trong nhà thuốc quốc doanh không có hoặc bán theo phiếu, ngay cả với thuốc thông thường. Hơn nữa, thời gian này cũng xuất hiện tình trạng ngăn chặn lưu thông thuốc từ tỉnh này sang tỉnh khác, hiện tượng tiêu cực diễn ra khá phổ biến ở nhà thuốc, bệnh viện. Để giải quyết tình trạng này, Bộ Y tế đã đề ra một số chủ trương, biện pháp gồm:
Về sản xuất thuốc: Sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống sản xuất theo hướng tập trung, chuyên môn, hợp tác và liên hiệp; có biện pháp kết hợp hài hòa ba lợi ích (nhà nước, xí nghiệp, công nhân viên) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Kết hợp công tác đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường, loại trừ những tổ chức sản xuất thuốc bất hợp pháp.
Thực hiện sự quản lý thống nhất theo chuyên ngành đối với các hình thức sản xuất: Nhà nước, tập thể; có chính sách, điều lệ thích hợp với các đơn vị công tư hợp doanh; có sự quản lý chặt chẽ và hướng dẫn giúp đỡ, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất tập thể.
Về phân phối thuốc: Củng cố, hoàn thiện mạng lưới phân phối thuốc quốc doanh, chống thái độ cửa quyền, chống làm thất thoát thuốc men, tài sản và chống các hiện tượng tiêu cực khác. Củng cố các hiệu thuốc, đại lý chuyên doanh mua thuốc do các gia đình có thân nhân ở nước ngoài gửi thuốc về, đảm bảo thuốc có chất lượng, giá cả hợp lý, tạo nguồn thuốc cung ứng cho các cơ sở khám chữa bệnh.
Tăng cường các biện pháp quản lý thị trường: Năm 1982, phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981- 1985) và những năm 80 nêu rõ: "Khai thác nguồn dược liệu trong nước, chế biến các loại thuốc thông thường, tích cực khắc phục tình trạng thiếu thuốc. Mỗi xã, mỗi huyện đều phải dành đất đai và lao động vể trồng cây thuốc.
Đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác trồng cây thuốc và gia công sản xuất thuốc chữa bệnh cho người nước ngoài để đổi lấy nguyên liệu hóa dược và tân dược. Tích cực chuẩn bị điều kiện, tiến tới tự sản xuất thuốc kháng sinh".
Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Y tế đề ra 10 nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong đó công tác dược được đề cập ở nội dung số 8, tập trung vào bảo đảm thuốc thiết yếu, chủ yếu là thuốc nam và áp dụng các phương pháp không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh và thể dục).
Ngoài ra, Bộ Y tế còn quy định 10 điểm nhằm nâng cao chất lượng công tác y tế, liên quan đến công tác dược có thực hiện tiết kiệm, sử dụng thuốc hợp lý và an toàn; bằng mọi biện pháp không để thiếu thuốc men, vật tư thông thường; phát triển sản xuất thuốc bằng vật tư nguyên liệu tại chỗ.

Nghiên cứu phát triển dược phẩm là yếu tố sống còn trong giai đoạn mới của ngành Dược.
Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ V, ngành Dược đã đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý. Đơn vị nghiên cứu kháng sinh đã nghiên cứu hoạt chất dekamycin chiết xuất từ chủng xạ khuẩn DK6, điều trị các viêm kết mạc và loét giác mạc do tụ cầu vàng hay do virus Herpes. Bên cạnh đó, kháng sinh oxytetracycline cũng đã bước đầu được nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm thành công.
Trong công tác quản lý giá thuốc cũng có chính sách thay đổi để chấm dứt tình trạng cơ sở sản xuất thuốc không có tích lũy lãi để đầu tư phát triển sản xuất, chậm đổi mới công nghệ và thiết bị dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm thấp và ngăn chặn tình trạng giá bán lẻ giữa hiệu thuốc nhà nước và trên thị trường tự do chênh lệch nhiều.
Vụ Dược chính đã xây dựng hệ thống Dược chính hoàn chỉnh, đầy đủ gồm: Quy phạm sản xuất (tương ứng với thực hành tốt sản xuất thuốc), quy trình kỹ thuật, quy chế thuốc độc, quy chế nhãn thuốc, danh mục thuốc ưu tiên, quy chế kiểm tra dược chính...
Như vậy, trong thời kỳ trước đổi mới, ngành Dược đã từng bước phát triển hoàn thiện, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực, sản xuất thuốc... phát triển mạnh mẽ nền y học cổ truyền và sản xuất kháng sinh, thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học với hàng trăm đề tài nghiên cứu được thực hiện tại các đơn vị như: Viện Dược liệu, Đại học Dược khoa Hà Nội...
3. Ngành Dược vươn mình vượt khó khăn trong thời kỳ đổi mới (1986- 2001)
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, đất nước dần dần bước ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái và đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với ngành Dược, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Phát triển sản xuất dược phẩm và thiết bị y tế. Mở rộng nuôi trồng, chế biến và sử dụng có hiệu quả thuốc ta. Có chính sách đầu tư để hình thành các vùng dược liệu tập trung, tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất dược phẩm và cho xuất khẩu, mở rộng sản xuất hóa dược, xây dựng công nghiệp kháng sinh. Nâng cao năng lực xuất khẩu để nhập khẩu những thứ chưa sản xuất được. Xây dựng ngành công nghiệp dược phẩm".
Bên cạnh đó, Đại hội Đảng VI cũng nêu bật: "Thuốc chữa bệnh đang là một vấn đề xã hội gay gắt. Năm năm tới, phải tăng quỹ thuốc thông thường, thuốc kháng sinh, thuốc chống dịch, thanh toán dần các bệnh sốt rét, bạch hầu, bại liệt, ho gà, sởi...
Mạng lưới y tế cơ sở, nơi hằng ngày trực tiếp chăm sóc sức khỏe của người lao động phải được củng cố và chấn chỉnh. Những xã chưa có trạm y tế và nhà hộ sinh, những huyện chưa có bệnh viện thì phải xây dựng... Mỗi xã có vườn dược liệu gắn liền với trạm y tế để phục vụ tại chỗ. Dành một diện tích cần thiết để trồng dược liệu tập trung phục vụ nhu cầu cả nước".

Sản xuất thuốc ngày càng quy củ, đảm bảo chất lượng.
Tuy nhiên, những năm đầu đổi mới, do chưa thích ứng với cơ chế mới nên hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và ngành Dược nói riêng còn gặp nhiều khó khăn. Riêng về dược liệu, nguồn dược liệu thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, dẫn đến tình trạng hàng trăm loài cây thuốc gần như bị hủy diệt. Việc nuôi trồng và chế biến cây, con làm thuốc không duy trì được vì thiếu nơi tiêu thụ và không cạnh tranh được với dược liệu nước ngoài.
Phong trào thuốc Nam, châm cứu tại tuyến y tế cơ sở tan rã, do nhiều nguyên nhân. Các trạm dược liệu được sáp nhập vào các xí nghiệp liên hợp dược ở các tỉnh nên dần dần ngừng hoạt động hoặc giải thể, chỉ còn một vài địa phương như: Thanh Hóa, Vĩnh Phúc duy trì trạm nghiên cứu dược liệu nhưng sau đó cũng bị giải thể.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 chỉ rõ: "Bảo đảm nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Mở rộng công nghiệp trang thiết bị y tế, tích cực chuẩn bị xây dựng công nghiệp hóa dược và kháng sinh, phát triển nuôi trồng cây, con làm thuốc"; "Phát triển khoa học y dược học, xây dựng các mũi nhọn y dược học, y tế Việt Nam, chú trọng đào tạo cán bộ, tiếp nhận tiến bộ khoa học thế giới ứng dụng thích hợp vào nước ta trên cơ sở Đông - Tây y kết hợp".
Nhờ có chủ trương đúng đắn, ngành Dược đã có bước phát triển đáng kể, tỷ lệ thuốc giả được phát hiện giảm nhanh chóng, hoạt động sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp Dược nhà nước đến năm 1993 đã đạt được nhiều kết quả:
- Về tổng doanh thu: Doanh nghiệp Trung ương đạt hơn 717 tỷ đồng, doanh nghiệp địa phương đạt hơn 1.062 tỷ đồng.
- Về tổng sản lượng: Khối doanh nghiệp Trung ương sản xuất được 166 triệu ống tiêm và 5.153 triệu viên thuốc. Khối doanh nghiệp địa phương sản xuất được 172 triệu ống tiêm và 5.653 triệu viên thuốc.
- Về tỷ suất lợi nhuận: Khối doanh nghiệp Trung ương đạt tỷ lệ 19,5% trên vốn và 5% trên doanh thu. Khối doanh nghiệp địa phương đạt tỷ lệ 23,8% trên vốn và 2,3% trên doanh thu.
- Về nộp ngân sách: Khối doanh nghiệp Trung ương đạt 33,7 tỷ đồng, khối doanh nghiệp địa phương đạt 38,3 tỷ đồng.
Ngoài ra, tổng giá trị xuất khẩu ngành Dược đạt hơn 5 triệu USD, có 91 công ty nước ngoài được cấp phép nhập thuốc vào Việt Nam, số lượng nhà thuốc gia tăng rõ rệt, nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn được cấp phép hoạt động...
Đến năm 1994, theo tổng kết của Cục Quản lý Dược Việt Nam, khối doanh nghiệp dược đã nộp ngân sách hơn 19.860 triệu đồng và năm 1999 tăng lên 362.452 triệu đồng. Năm 2001, cả nước có hơn 34.000 điểm bán lẻ thuốc, đã thực hiện một số biện pháp quản lý giá thuốc...
Trong cung ứng thuốc đã chú trọng bảo đảm đủ thuốc thiết yếu cho nhân dân. Việc sử dụng thuốc đã dần dần hợp lý và an toàn hơn, tuy vậy tiền thuốc trên đầu người dân/năm không đồng đều giữa các địa phương. Trong năm này, cả nước có 257 cơ sở sản xuất thuốc đông dược, đã hình thành nhiều vùng trồng và chế biến cây thuốc.
Đặc biệt, Viện Dược liệu và Công ty Dược liệu Trung ương 1 đã đầu tư cho một số tỉnh trồng đại trà cây thanh hao hoa vàng để làm nguyên liệu chiết xuất artemisinin, không chỉ đáp ứng nhu cầu cho chương trình quốc gia về phòng chống sốt rét tại Việt Nam mà còn xuất khẩu artemisinin và artesunat cho các nước Anh, Thụy Sĩ, Thái Lan, Hà Lan...
Các công tác khác như công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hành nghề dược tư nhân, đầu tư nước ngoài, đảm bảo chất lượng thuốc, truyền thông về sử dụng thuốc an toàn, hợp lý... đều đạt được kết quả khả quan, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của ngành Dược trong giai đoạn đổi mới.

Sản xuất thuốc ngày càng được hiện đại hóa.
4. Vươn lên tầm cao mới thời kỳ mới và hội nhập (từ 2002 đến nay)
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ngành Dược tiếp tục duy trì tốt công tác đào tạo nhân lực, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học, hoàn thiện văn bản chính sách trong nhiều lĩnh vực của ngành để hướng đến cung ứng đủ thuốc theo yêu cầu, sử dụng thuốc hợp lý, an toàn trong nhân dân, nhất là bám sát tình hình thực tiễn để có biện pháp thích ứng sớm... Điển hình trong giai đoạn này là đại dịch COVID - 19.
Việc phòng chống sự lây lan của dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCOV) gây ra cần có sự chung tay của cộng đồng, trách nhiệm và ý thức của mọi người dân, hành động thực tế của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là hệ thống các cơ sở bán lẻ thuốc trên toàn quốc. Đây là các địa chỉ tin cậy cho người dân đến để mua thuốc và các vật tư y tế như khẩu trang, nhiệt kế... phục vụ nhu cầu phòng, chống bệnh.
Từ thực tế này, Cục Quản lý Dược đã có những yêu cầu thiết thực đối với đơn vị này như không được tăng giá bán khẩu trang, không găm hàng, tích trữ gây ra tình trạng khan hiếm khẩu trang trên thị trường; Hướng dẫn cho người dân cách sử dụng, cách đeo khẩu trang đúng theo hướng dẫn...
Hiện nay GDP của Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, chi tiêu cho sức khỏe của người Việt ngày càng cao, nhất là sau đại dịch COVID-19, bởi thế doanh nghiệp ngành Dược có tiềm năng lớn để phát triển, ngành công nghệ dược phẩm đang có thuận lợi lớn.
Theo số liệu của Cục Quản lý Dược, từ năm 2021 đến nay, ngành Dược sản xuất 50% lượng thuốc phục vụ nhân dân đảm bảo chất lượng với giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh và phòng bệnh.
Sản xuất thuốc mở rộng về quy mô với 228 nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP-WHO, trong đó có 18 dây chuyền đạt tiêu chuẩn EU-GMP, Japan-GMP, TCA, PIC/s. Tổng giá trị thị trường dược phẩm ước khoảng 7 tỷ USD năm 2023.
Tuy nhiên, đến nay doanh nghiệp dược Việt Nam phần lớn vẫn tập trung sản xuất các loại thuốc phổ biến trên thị trường, trong khi những loại thuốc chuyên khoa, đặc trị, yêu cầu kỹ thuật bào chế hiện đại lại chưa nhận được sự quan tâm tương xứng.
Ngoài ra, nguyên liệu sản xuất thuốc trong nước vẫn nhập khẩu nhiều dù có thế mạnh về nguồn dược liệu lớn. Cùng với đó, nhân lực trong lĩnh vực dược lâm sàng, quản lý chất lượng, nghiên cứu phát triển thuốc mới còn thiếu…
Vì vậy, trong Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, ngành Dược Việt Nam đặt mục tiêu phát triển ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, đảm bảo tiếp cận thuốc cho người dân với mức chi phí hợp lý;
Nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sẵn có để sản xuất thuốc biệt dược gốc, thuốc có dạng bào chế mới, hiện đại, hướng tới trở thành trung tâm sản xuất gia công/chuyển giao công nghệ các thuốc biệt dược gốc của khu vực ASEAN, phấn đấu phát triển nền công nghiệp dược trong nước đạt cấp độ 4 theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (WHO);
Phát triển dược liệu, thuốc và các sản phẩm từ nguồn dược liệu trong nước thành lĩnh vực sản xuất hàng hóa có chất lượng và giá trị cao; Đẩy mạnh sản xuất nguyên liệu làm thuốc; Tối ưu hóa việc sử dụng thuốc. Phấn đấu đến năm 2030, 100% thuốc được cung ứng chủ động, kịp thời cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh, đến năm 2045 đóng góp trên 20 tỷ USD cho GDP cả nước.
Để làm được điều này và đưa ngành Dược lên một tầm cao mới, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện về thể chế, pháp luật, đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản lý... còn cần chú trọng đổi mới sáng tạo, tiến bộ công nghệ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số...