Ngăn ngừa bệnh suy giảm trí nhớ bằng thuốc

18-01-2012 09:19 | Dược
google news

Suy giảm trí nhớ hay sa sút trí tuệ thường gọi là lẫn hay đãng trí, là hiện tượng kém dần của trí nhớ và nhận thức do suy thoái không ngừng của não bộ.

Suy giảm trí nhớ hay sa sút trí tuệ thường gọi là lẫn hay đãng trí, là hiện tượng kém dần của trí nhớ và nhận thức do suy thoái không ngừng của não bộ.

Người mắc phải chứng lẫn lúc đầu thường quên những việc mới xảy ra nhưng về sau, khi bệnh trầm trọng, người bệnh gặp phải những khó khăn trong giải quyết các vấn đề cần suy nghĩ có tính chất trừu tượng như tính toán, lập kế hoạch, tính hóa đơn, hiểu những gì mình đã đọc, tổ chức công việc thường ngày… Người bệnh có thể dễ kích động, tranh cãi vô cớ, ăn mặc không phù hợp với hoàn cảnh. Ở giai đoạn nặng, người bệnh có thể mất định hướng, lẫn lộn, không nhớ ngày tháng, không nhớ nơi mình ở, không nhớ những nơi mình đã đi qua, không thể kiểm soát được việc vệ sinh cá nhân, không tự chăm sóc được bản thân…

Sa sút trí tuệ cần được phân biệt với tình trạng giảm trí nhớ sinh lý của người lớn tuổi (quên lành tính của tuổi già) vốn là hệ quả của sự lão hoá, trong đó các quá trình thần kinh bị chậm đi. Sa sút trí tuệ do nhiều nguyên nhân gây ra, thường gặp là do nguyên nhân mạch máu, do bệnh Alzheimer. Những thuốc thường được sử dụng để điều trị bệnh suy giảm trí nhớ gồm:

 Não bộ và hệ thần kinh.

Nhóm thuốc ức chế cholinestarase:

Nhóm này được sử dụng vì có tình trạng suy giảm thụ thể acetylcholin và nicotin trong hệ thần kinh trung ương ở các bệnh nhân sa sút trí tuệ do bệnh Alzheimer và chính sự khiếm khuyết này gây suy giảm nhận thức và suy giảm trí nhớ. Cho tới nay, thuốc kháng men cholinesterase được xem là nhóm thuốc chính trong điều trị bệnh Alzheimer và các bệnh sa sút trí tuệ khác. Nhóm thuốc này đã được chứng minh là có hiệu quả hơn placebo trong việc điều trị các triệu chứng của bệnh Alzheimer và các bệnh sa sút trí tuệ khác khi được sử dụng ở giai đoạn bệnh nhẹ hay trung bình. Tuy nhiên, các thuốc này không làm ngăn chặn được diễn tiến tự nhiên của bệnh.

Tacrine: Là thuốc kháng men cholinesterase được sử dụng đầu tiên, thuốc được chứng minh làm giảm tình trạng suy giảm nhận thức trên bệnh nhân Alzheimer và làm chậm thời gian bệnh nhân phải có người chăm sóc. Tuy nhiên hiện nay, thuốc ít được sử dụng do độc tính của thuốc trên chức năng gan.

Tỷ lệ mắc bệnh sa sút trí tuệ tăng nhanh theo sự gia tăng tuổi tác, được nhân lên gấp đôi sau mỗi 5 năm trong quần thể người từ 60 tuổi trở lên. Số liệu thống kê dịch tễ học của y văn thế giới cho thấy, bệnh chiếm 1% quần thể người từ 60 - 64 tuổi, nhưng bằng 30 - 50% trong quần thể người trên 85 tuổi. Tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ trong các viện dưỡng lão từ 60 - 80%.

Donepezil: Dung nạp tốt vì ít tác dụng phụ, donepezil không có độc tính trên chức năng gan và rất ít tương tác với các thuốc khác. Thuốc dùng một liều vào buổi tối, sau 4-6 tuần có thể tăng liều. Tác dụng phụ thường gặp là rối loạn tiêu hóa và rối loạn giấc ngủ.

Rivastigmine: Thuốc có tác dụng chọn lọc trên vùng vỏ não hồi hải mã và vùng vỏ não mới (neocortex), là nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất trên bệnh nhân Alzheimer. Rivastigmine được chứng minh có hiệu quả trong các trường hợp Alzheimer mức độ nhẹ hoặc trung bình.

Galantamine: Galantamine ngoài cơ chế ức chế men cholinesterase còn có tác dụng điều hòa thụ thể nicotin, thuốc có hiệu quả trong các trường hợp bệnh Alzheimer mức độ nhẹ và trung bình.

Memantine: Thuốc đối kháng thụ thể N-methyl D aspartate (NMDA) của hệ thống glutamate vì có hiện tượng tăng kích hoạt thụ thể NMDA làm tổn thương các nơron trong các bệnh lý thoái hóa thần kinh. Trong các bệnh lý thoái hóa thần kinh có hiện tượng tăng hoạt hóa các thụ thể glutamate, trong đó có thụ thể NMDA, memantine là thuốc đầu tiên có tác dụng bảo vệ tế bào chống lại sự gia tăng hoạt tính của hệ thống glutamate bằng cách ức chế thụ thể này. Memantine được sử dụng trong các trường hợp bệnh Alzheimer mức độ trung bình và nặng, tuy nhiên vì là thuốc mới nên chưa có khuyến cáo sử dụng chính thức.

Memantine cũng có tác dụng trong các trường hợp sa sút trí tuệ mạch máu hay bệnh lý sa sút trí tuệ hỗn hợp mạch máu và bệnh Alzheimer.

Thuốc dung nạp tốt hơn các thuốc kháng men cholinesterase, tác dụng phụ thường gặp là chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, tiêu chảy. Memantine được sử dụng trên bệnh nhân Alzheimer khi không còn đáp ứng với các thuốc kháng men cholinesterase hoặc có thể sử dụng trong trường hợp bệnh ở mức độ nhẹ hay trung bình nhưng không dung nạp hay có chống chỉ định với thuốc kháng men cholinesterase (rối loạn nhịp tim).

Selegiline: Ức chế men MAO B có tính chất bảo vệ tế bào thần kinh.

Các loại thuốc khác:

Ginkgo biloba: Có một số nghiên cứu sử dụng ginkgo biloba trong điều trị bệnh Alzheimer, các phân tích tổng hợp cho thấy, thuốc có hiệu quả cao hơn placebo trong sự cải thiện các triệu chứng về nhận thức nhưng không hiệu quả bằng nhóm thuốc kháng men cholinesterase. Thuốc có thể được sử dụng trong sa sút trí tuệ hỗn hợp Alzheimer và mạch máu.

Vitamin E: Không có bằng chứng là việc sử dụng vitamin E phòng ngừa được tình trạng sa sút trí tuệ hay làm giảm triệu chứng rối loạn nhận thức trên bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer, tuy nhiên, một số khuyến cáo điều trị có chỉ định sử dụng vitamin E với hy vọng làm chậm diễn tiến của bệnh.

Nicotin có thể làm cải thiện một số triệu chứng về tâm thần kinh nhưng làm tăng tình trạng lo âu.

Cerebrolysin: Một nghiên cứu cho thấy, có cải thiện chức năng toàn thể và hoạt động hàng ngày của bệnh nhân Alzheimer.

Cho đến nay chưa có thuốc nào được công nhận điều trị hiệu quả bệnh sa sút trí tuệ. Phần lớn nhằm mục đích làm bệnh tiến triển chậm. Do vậy, cần phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ gây bệnh để có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Có nhiều yếu tố nguy cơ gây sa sút trí tuệ. Trước tiên là các yếu tố nguy cơ về mạch máu, ví dụ như tăng huyết áp, đái tháo đường, mỡ máu, béo phì, bệnh mạch vành, mạch não… Thứ hai là các yếu tố tâm lý xã hội và lối sống như học vấn thấp, ít giao tiếp xã hội, ít vận động, chế độ ăn uống không hợp lý... Cuối cùng là các yếu tố nguy cơ ở mức phân tử. Nếu kiểm soát tốt các yếu tố kể trên, phối hợp với một lối sống lành mạnh, thường xuyên luyện tập trí óc, tăng cường giao tiếp và hoạt động thể lực thì có thể phòng tránh được phần nào nguy cơ mắc bệnh, ít nhất thì cũng làm chậm sự khởi phát và tiến triển của bệnh. 

BS. Ngô Thanh Sơn (Khoa Thần kinh, Bệnh viện Thanh Nhàn)


Ý kiến của bạn