Nguyên nhân trào ngược dạ dày - thực quản là gì?
Có nhiều giả thuyết về nguyên nhân của bệnh trào ngược dạ dày thực quản, trong đó tập trung chủ yếu vào một số yếu tố như: do van tâm vị - dạ dày yếu (đóng mở không đều, hoặc đóng không kín) làm cho dịch dạ dày trào ngược lên thực quản hoặc do chức năng hoạt động của các cơ co bóp thực quản y (nhiều trường hợp trào ngược dạ dày - thực quản là do cơ co bóp thực quản bị yếu bẩm sinh hay gặp ở các bệnh nhi, người cao tuổi); hoặc do lượng chất nhầy bảo vệ niêm mạc thực quản ít dần bởi viêm loét thực quản. Bên cạnh đó, có thể vì một lý do nào đó (viêm các tuyến nước bọt mạn tính hoặc tuổi cao…) làm cho lượng nước bọt ngày một suy giảm (nước bọt có tính kiềm nên giúp trung hòa, rửa trôi bớt dịch axít dạ dày). Một số trường hợp có thể do tình trạng dư thừa axít HCl và các enzym tiêu hóa trong dạ dày hoặc do sự trì trệ trong quá trình tiêu hóa, để thức ăn bị ứ đọng lâu trong dạ dày (hẹp môn vị, u dạ dày...). Ngoài ra, béo phì, bệnh thoát vị dạ dày qua khe thực quản, một số phụ nữ đang mang thai, nghiện thuốc lá, rượu bia, một số gia vị cay, thức ăn quá nóng sẽ làm trầm trọng thêm hội chứng trào ngược dạ dày thực quản.
Biểu hiện trào ngược dạ dày - thực quản như thế nào?
Với hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản, các triệu chứng thường xuất hiện sau khi ăn hoặc về đêm. Triệu chứng thường gặp nhất là ợ (ợ hơi, ợ nóng, ợ chua). Ợ hơi thường xuyên ngay cả khi đói hoặc không uống bất cứ thứ gì. Ợ nóng là người bệnh cảm giác nóng rát từ dạ dày hay vùng ngực dưới, lan hướng lên cổ, có khi đến tận vùng hạ họng, mang tai, kèm theo đó là vị chua trong miệng (do dịch dạ dày trào ngược lên thực quản tiếp xúc với niêm mạc thực quản gây cảm giác nóng, nóng rát). Ợ chua xảy ra nhiều nhất vào buổi sáng khi đánh răng. Các hiện tượng ợ thường tăng lên ngay sau khi ăn no, đầy bụng khó tiêu, hoặc uống rượu, nước chua hoặc khi cúi gập người về phía trước, hoặc khi nằm nghỉ.
Buồn nôn, nôn thường xuất hiện khi ăn no hoặc nằm ngay sau khi ăn, lý do là các chất trào ngược lên thực quản không chỉ là hơi, dịch tiêu hóa mà cả thức ăn khiến người bệnh có cảm giác buồn nôn, nôn.
Đau, tức ngực chiếm tỉ lệ khoảng 40 - 45% do đau đoạn thực quản chạy qua ngực, khi axít trong dịch dạ dày trào ngược lên thực quản kích thích vào đầu mút các sợi thần kinh, gây cảm giác đau ở tim. Người bệnh có cảm giác bị thắt ở ngực, đè ép, xuyên ra lưng và cánh tay làm cho người bệnh rất lo lắng tưởng rằng bệnh của tim mạch hoặc bệnh của phổi. Ngoài ra, bệnh trào ngược dạ dày thực quản còn gặp các triệu chứng như đắng miệng, khó nuốt, cảm giác vướng ở vùng họng, khàn giọng, đau họng, hôi miệng, nấc, ho khan kéo dài không rõ nguyên nhân.
Ở trẻ em có dấu hiệu nôn trớ, chất nôn có mùi chua của dịch dạ dày. Ít gặp hơn là triệu chứng khò khè, bé biếng ăn, chậm lớn, có thể bị viêm hô hấp.
Triệu chứng giảm bớt khi người bệnh dùng các thuốc kháng axít như: Gastropulgit, Asigastrogit… hoặc thuốc làm giảm tiết axít như Omeprazon, Ranitidine…
Để chẩn đoán, ngoài các biểu hiện lâm sàng, cần nội soi dạ dày - thực quản và sinh thiết để đánh giá tình trạng niêm mạc và xét nghiệm dịch vị dạ dày.
Trào ngược dạ dày - thực quản có gây biến chứng không?
Hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản có thể gây biến chứng, đó là có thể gây viêm loét thực quản (viêm loét thực quản cũng có thể gây chảy máu), nếu nặng và kéo dài dẫn đến làm hẹp thực quản. Bệnh diễn ra trong một thời gian dài, nếu không được điều trị đúng sẽ làm cho niêm mạc thực quản biến đổi có thể chuyển thành ung thư nhất là người cao tuổi, đây là biến chứng rất nguy hiểm.
Ở một số bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và người già, có thể gây nên viêm phổi do hít dịch trào ngược vào đường thở.
Triệu chứng thường gặp nhất là ợ
Nguyên tắc điều trị trào ngược dạ dày - thực quản
Khi bị đau tức ngực, có ợ hơi hoặc chua (người lớn), ở trẻ nhỏ thấy nôn trớ, chậm lớn… cần đi khám để xác định bệnh. Khi được chẩn đoán là hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản, về nguyên tắc, có thể sử dụng thuốc chống tiết axít ức chế bơm proton (PPI), hoặc dùng thuốc kháng thụ thể histamin H2, thuốc bao phủ niêm mạc thực quản, dạ dày. Dùng thuốc gì, liều lượng và ngày sử dụng như thế nào là do bác sĩ khám bệnh chỉ định, người bệnh hoặc người nhà không nên tự mua thuốc điều trị, đặc biệt là trẻ em. Một số tác giả khuyên, trường hợp nhẹ có thể dùng các thuốc làm tăng trương lực cơ thắt dưới thực quản.
Phẫu thuật có thể được tiến hành (rất hạn hữu) khi không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với điều trị nội khoa (dùng thuốc).
Người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân nên lưu ý, do bệnh dễ tái phát nên thường phải điều trị duy trì sau đợt điều trị tấn công hoặc phải dùng thuốc khi có triệu chứng tái phát, do đó cần được khám lại theo yêu cầu của bác sĩ điều trị.