Nano Solid – Lipid: Điểm khác biệt so với các công nghệ nano khác

19-11-2019 17:44 | Thông tin dược học
google news

SKĐS - Các nhà nghiên cứu đã luôn nỗ lực phát triển và cải tiến các dạng bào chế nano khác nhau để cuối cùng cho ra đời dạng Nano Solid-Lipid không những có hiệu quả cao mà còn an toàn hơn các loại nano khác.

Có thể nói, sự ra đời của Nano Solid-Lipid là một cuộc cách mạng lớn trong công cuộc phát triển dược phẩm, đặc biệt hệ phân phối thuốc hiện đại.

Điềm khác biệt

Nano hóa trong lĩnh vực dược phẩm không còn là điều xa lạ. Hiện nay, trên thị trường đã có rất nhiều sản phẩm ứng dụng công nghệ nano trong điều trị các bệnh lý như: Ung thư, cơ xương khớp, dạ dày, đái tháo đường, đau đầu, tim mạch.…cho hiệu quả tốt hơn nhiều lần so với dạng dùng thông thường. Công nghệ nano hóa có rất nhiều loại như: liposome, phytosome, micelle, sol-gel.. tuy nhiên vấn đề về hiệu quả và độ an toàn của nano vẫn còn là câu hỏi lớn cho các nhà nghiên cứu. Để giải quyết vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã luôn nỗ lực phát triển và cải tiến các dạng bào chế nano khác nhau để cuối cùng cho ra đời dạng Nano Solid-Lipid không những có hiệu quả cao mà còn an toàn hơn các loại nano khác. Có thể nói, sự ra đời của Nano Solid-Lipid là một cuộc cách mạng lớn trong công cuộc phát triển hệ phân phối thuốc hiện đại.

Các hạt nano lipid rắn (SLN) luôn đi đầu trong lĩnh vực công nghệ nano, phát triển nhanh chóng với một số ứng dụng tiềm năng trong phân phối và nghiên cứu thuốc. Với đặc tính kích thước hạt độc đáo, các hạt Nano Solid-Lipid cho thấy tiềm năng phát triển. Khả năng kết hợp thuốc vào các vật liệu nano cho ra các sản phẩm nhắm đích cao. Do đó, các hạt Nano Solid-Lipid đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu.

Các hạt nano lipid rắn (SLN) lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1991 thay thế cho các chất mang keo truyền thống như  nhũ tương, liposome và micro polymer. Các hạt Nano Solid-Lipid đang thu hút sự chú ý lớn như là chất mang thuốc keo mới cho các ứng dụng tiêm tĩnh mạch.

Nano Solid – Lipid

SLN là hệ chất mang keo có kích thước siêu phân tử từ 50 – 1000nm, bao gồm lipid sinh lý phân tán trong nước hoặc trong dung dịch chất hoạt động bề mặt. SLN mang các đặc tính độc đáo như kích thước nhỏ, diện tích bề mặt lớn, tải lượng thuốc cao, tính ổn định tốt và đặc biệt có thể sản xuất quy mô lớn.

Các hạt Nano Solid-Lipid khắc phục những nhược điểm liên quan đến trạng thái lỏng của các giọt dầu mỡ, lipid lỏng đã được thay thế bằng một lipid rắn. Ngoài ra, chúng có nhiều ưu điểm như khả năng tương thích sinh học tốt, độc tính thấp và thuốc ưa mỡ được phân phối tốt hơn nhờ các hạt nano lipid rắn và có ổn định về mặt vật lý.

Ứng dụng trong y học

Với nhiều ưu điểm, công nghệ Nano Solid-Lipid đã được ứng dụng rất nhiều lĩnh vực y khoa để điều trị các bệnh lý khác nhau như:

Hóa trị ung thư: Các hạt Nano Solid-Lipid phân phối thuốc nhắm đúng mục tiêu, kích thước hạt cực nhỏ (nhỏ hơn 50nm).

Bệnh sốt rét: Mặc dù chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ tiên tiến và đổi mới, các bệnh truyền nhiễm như sốt rét vẫn tiếp tục là một trong những thách thức lớn nhất đối với sức khỏe trên toàn thế giới. Nhược điểm chính của thuốc sốt rét là độc tính và khó dung nạp. Các chế phẩm nano giúp giảm tác dụng phụ, khắc phục sinh khả dụng kém và tính chọn lọc của thuốc.

Bệnh lao: SLN đã được sử dụng để đóng gói thuốc chống lao (ATD) và đã được chứng minh là thành công trong bệnh lao thực nghiệm khi giảm tần suất dùng thuốc và cải thiện sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân.

Thực tế, các hạt Nano Solid-Lipid là một hệ thống phân phối thuốc đầy hứa hẹn trong tương lai...

Ưu điểm vượt trội của SLN so với dạng nano thế hệ cũ

Khả năng tương thích sinh học tuyệt vời.

Khả năng giải phóng thuốc có kiểm soát vận chuyển thuốc tới đích.

Cải thiện tính ổn định của dược phẩm.

Hàm lượng thuốc cao.

Dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất và dễ dàng khử trùng.

Tăng cường sinh khả dụng của các hợp chất hoạt tính sinh học.

Bảo vệ các hợp chất khó bền.

Sản xuất dễ dàng hơn nhiều so với hạt nano biopolymeric.

Nguyên liệu thiết yếu giống như trong nhũ tương.

Độ ổn định lâu dài rất cao.

Khả năng giải phóng thuốc có kiểm soát.

Không có độc tính sinh học của chất mang.

Tránh dung môi hữu cơ.


DS. Kim Ngân
Ý kiến của bạn