Tuy nhiên, curcumin và ginger rất khó tan trong nước nên khó hấp thu. Để tăng khả năng đưa thuốc vào ổ viêm, các nhà khoa học đã nghiên cứu áp dụng công nghệ nano để bào chế nano dược liệu với mục đích cải thiện độ tan, sinh khả dụng, hiệu quả điều trị so với dạng bào chế thông thường.
Bệnh gây nhiều phiền toái
Bệnh lý về khớp và phần mềm quanh khớp như gân, dây chằng là bệnh lý thường gặp ở mọi quốc gia trên thế giới, thường gặp ở nhiều vị trí như khớp gối, khuỷu tay, ngón tay, vai, cột sống... Thập niên 2010 – 2020 được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lựa chọn là “Thập niên xương khớp”. Điều này cho thấy mức độ phổ biến và tính chất báo động của các bệnh lý cơ xương khớp. Các triệu chứng có khi là những cảm giác chủ quan của người bệnh như đau, tê buốt, co cứng, mỏi; hoặc những biểu hiện rõ ràng như yếu cơ, hạn chế cử động, biến dạng gây ảnh hưởng nhiều đến chức năng vận động, hay nặng nề hơn là gây tàn phế, mất khả năng lao động và tự phục vụ của bệnh nhân, gia tăng chi phí của gia đình và xã hội.
Điều trị nội khoa là một phương pháp cơ bản. Thuốc giảm đau chống viêm không steroid thường được chỉ định bởi hiệu quả chống viêm, giảm đau, tuy nhiên lại có nhiều tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như khó tiêu, đau bụng, xuất huyết tiêu hóa, loét dạ dày... và các tác dụng phụ trên tim mạch... gây nhiều e ngại cho bác sĩ cũng như bệnh nhân. Vì thế, xu hướng hiện nay quay về với thiên nhiên, các thảo dược, nhất là những cây thuốc đã được dùng trong y học cổ truyền.
Những hứa hẹn vượt trội của dược liệu nano
Trong những năm gần đây có một số nghiên cứu đã chứng minh tác dụng của curcumin được chiết xuất từ cây nghệ vàng và ginger từ củ gừng trong điều trị bệnh về cơ xương khớp. Tuy nhiên, curcumin và ginger rất khó tan trong nước nên khó hấp thu, chuyển hóa nhanh và dễ thải trừ nên khi uống chỉ hấp thu được từ 2-5%. Vì vậy, để tăng khả năng đưa thuốc vào ổ viêm, các nhà khoa học đã nghiên cứu áp dụng công nghệ nano để bào chế nano dược liệu với mục đích cải thiện độ tan, sinh khả dụng, hiệu quả điều trị so với dạng bào chế thông thường. Để đánh giá hiệu quả điều trị của các nano dược liệu trong điều trị viêm khớp, gân và dây chằng, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong các năm gần đây.
Năm 2018, một nghiên cứu tiền lâm sàng để đánh giá tác dụng giảm đau chống viêm của ba loại nano dược liệu là nano curcumin, nano ginger và nano glucosamin (ký hiệu VL1801) trong điều trị thoái hóa khớp gối trên chuột cống trắng đã được thực hiện tại Bộ môn Dược lý, Trường Đại học Y Hà Nội. Trong nghiên cứu này, chuột cống được gây mô hình thoái hóa khớp bằng cách tiêm dung dịch MIA liều 3 mg/kg vào khớp gối. Sau đó chuột được điều trị bằng VL1801 với 2 mức liều 0,36 g/kg/ngày và 1,08 g/kg/ngày được so sánh với đối chứng là diclofenac 3 mg/kg, 1 thuốc giảm đau chống viêm không steroid. Các chỉ số đánh giá gồm có đường kính khớp gối, tác dụng giảm đau bằng máy đo ngưỡng đau và thời gian phản ứng với đau, các chỉ số viêm và mô bệnh học khớp gối.
Sau 6 tuần điều trị, đường kính khớp gối của nhóm chuột sử dụng VL1801 và nhóm chuột sử dụng diclofenac giảm rõ rệt so với nhóm không dùng thuốc. Đặc biệt, sử dụng VL1801 với liều 1,08 g/kg/ngày cho kết quả đường kính khớp gối giảm tương tự như nhóm dùng diclofenac tại tất cả các thời điểm. Tác dụng giảm đau được thể hiện qua hai chỉ số quan trọng là ngưỡng gây đau và thời gian phản ứng với đau. Hai chỉ số này càng lớn chứng tỏ hiệu quả giảm đau càng cao. Kết quả là thời gian phản ứng với đau và ngưỡng đau ở các nhóm sử dụng VL1801 đều tăng lên so với các nhóm khác. Để xem xét tác dụng chống viêm của phức hệ nano và diclofenac, hai chỉ số cytokin là interleukin-1β và TNF-α đã được đánh giá. Kết quả sau 6 tuần, lô uống VL1801 liều 1,08 g/kg/ngày làm giảm nống độ interleukin-1β thấp nhất, kể cả so với lô uống diclofenac. Đối với nồng độ TNF-α, VL1801 liều 1,08 g/kg/ngày làm giảm tương đương với diclofenac, đặc biệt VL1801 liều 0,36 g/kg/ngày làm nồng độ TNF-α giảm thấp hơn cả lô uống diclofenac.
Kết thúc nghiên cứu cho thấy phức hệ nano dược liệu VL1801 có tác dụng điều trị thoái hóa khớp gối trên chuột cống thông qua việc giảm độ sưng khớp gối, giảm các chỉ số interleukin-1β và TNF-α là các chỉ số đặc hiệu trong viêm khớp, thoái hóa khớp, tác dụng trên mô bệnh học cấu trúc sụn khớp, có xu hướng cải thiện cấu trúc sụn khớp tương đương diclofenac. Từ đó ta có thể thấy một tiềm năng của nano dược liệu trong điều trị viêm khớp và các phần mềm quanh khớp.
Cùng năm 2018, một nghiên cứu lâm sàng về tác dụng của nano curcumin dạng bôi ngoài da trong điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay đã được thực hiện bởi bác sĩ Vũ Long Đại, Trường Đại học Y Hà Nội. Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay là tình trạng viêm gân cơ duỗi tại chỗ bám vào xương lồi cầu ngoài khuỷu tay (viêm mỏm trên lồi cầu ngoài). Việc sử dụng quá mức các cơ và gân vùng cẳng tay và khuỷu, các động tác lặp đi lặp lại dẫn đến tình trạng căng giãn quá mức của các cơ và gây nên tổn thương. Bệnh có thể kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm và có thể tự hồi phục. Tuy nhiên vẫn cần các phương pháp điều trị để bệnh ổn định nhanh, tránh gây đau đớn và ảnh hưởng đến sinh hoạt của người bệnh. 71 bệnh nhân trên 16 tuổi, được chẩn đoán viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay, có điểm đau VAS từ 3-6/10 điểm, thời gian mắc bệnh trên 4 tuần đã đồng ý tham gia nghiên cứu và được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Nhóm một là nhóm nghiên cứu gồm 37 bệnh nhân được điều trị bằng sản phẩm Vietlife Inflapain gel bôi, thành phần chính là nano curcumin công nghệ Sol – Gel. Nhóm hai là nhóm chứng, gồm 34 bệnh nhân được điều trị bằng voltaren emulgel. Các bệnh nhân sử dụng sản phẩm trong liệu trình 3 tuần và được đánh giá mỗi tuần thông qua các thông tin: Mức độ đau theo thang điểm VAS và mức độ ảnh hưởng chức năng hoạt động theo thang điểm PRTEE. Kết thúc 3 tuần, bệnh nhân sẽ được đánh giá tính chất viêm (đau, sưng, nóng, đỏ), khả năng vận động và hình ảnh siêu âm. Ngoài ra, mức độ hài lòng của bệnh nhân và tác dụng không mong muốn cũng là những chỉ tiêu được đánh giá.
Bệnh lý về khớp thường gặp ở các vị trí khớp vai, cột sống, đầu gối.
Sau 3 tuần điều trị, có sự cải thiện về kết quả điều trị của cả hai nhóm can thiệp thể hiện qua các chỉ số: Cải thiện điểm đau theo VAS, điểm chức năng hoạt động liên quan đến khớp khuỷu PRTEE, tầm vận động khớp, triệu chứng lâm sàng và hình ảnh siêu âm. Trong đó, điểm VAS ở nhóm dùng inflapain giảm đáng kể (1,5 điểm), trong khi đó với nhóm dùng voltaren chỉ giảm 0,9 điểm. Cả hai nhóm đều làm giảm điểm PRTEE toàn phần, nhóm dùng inflapain giảm nhiều hơn với 5.31 điểm còn nhóm dùng voltaren giảm 4.23. Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. Số bệnh nhân ấn tại chỗ không đau tăng lên ở nhóm dùng inflapain là 25,82%, trong khi ở nhóm dùng voltaren chỉ là 16,12%. Cả hai nhóm đều cải thiện tầm vận động khớp khuỷu tay ở động tác gấp và cải thiện về hình ảnh siêu âm. Ở nhóm dùng inflapain, 16% bệnh nhân đạt được kết quả điều trị tốt, 61% đạt kết quả khá và chỉ còn 23% đạt kết quả trung bình. Trong khi đó với nhóm dùng voltaren, con số này lần lượt là 13%, 58% và 29%. Ngoài ra, trong 3 tuần điều trị, không tìm thấy tác dụng phụ tại chỗ và toàn thân, không có sự thay đổi về mạch và huyết áp, không có sự thay đổi về xét nghiệm tế bào máu ngoại vi và chức năng gan thận ở nhóm bệnh nhân dùng inflapain.
Tác dụng dược lý và độ an toàn của các dược liệu đã được nhiều nghiên cứu chứng minh. Như vậy, có thể thấy rằng việc áp dụng công nghệ nano hiện đại với dược liệu cổ truyền có thể giải quyết được vấn đề về độ tan, khả năng hấp thu, đồng thời làm tăng hiệu quả điều trị. Từ những nghiên cứu sơ khai nói trên đã mở ra cho dược liệu nano nhiều hứa hẹn vượt trội mang lại cơ hội cho người bệnh xương khớp.