Triệu chứng lâm sàng của tổn thương đường hô hấp trên là khó thở, có thể không rõ ràng ngay lập tức cho đến khi phù nề, đủ nghiêm trọng để làm giảm đáng kể đường kính đường thở. Các triệu chứng của tổn thương đường hô hấp dưới có thể bao gồm khó thở và ho có đờm.
Các triệu chứng thực thể bao gồm bỏng ở mặt, cổ, bồ hóng ở hầu họng, đường mũi, đường thở gần. Các dấu hiệu khác của tổn thương đường hô hấp trên bao gồm khàn giọng và thở rít, có thể dẫn đến suy hô hấp. Các dấu hiệu tổn thương đường hô hấp dưới có thể bao gồm: Thở nhanh, thở khò khè hoặc sử dụng cơ hô hấp phụ.
Những tổn thương khi bị bỏng đường hô hấp
Bỏng hô hấp thường do bệnh nhân tiếp xúc với nhiệt độ cao, khói hoặc hóa chất độc hại dẫn đến tổn thương đường hô hấp. Bỏng hô hấp là một trường hợp cấp cứu có thể ảnh hưởng đến đường hô hấp cũng như dẫn đến nhiễm độc toàn thân.
Vị trí và mức độ nghiêm trọng của tổn thương phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm nguyên nhân gây bỏng, kích thước và đường kính của các hạt trong khói, thời gian tiếp xúc và độ hòa tan của khí.
Tổn thương trực tiếp là do các thành phần có trọng lượng phân tử thấp trong khói do độ pH, khả năng hình thành các gốc tự do và khả năng tiếp cận đường hô hấp dưới và phế nang.
Dựa trên vị trí ban đầu của tổn thương, bỏng hô hấp được phân loại thành tổn thương đường hô hấp trên, hệ thống khí phế quản hoặc nhu mô phổi.
Tổn thương đường hô hấp trên
Tổn thương hàng đầu ở đường hô hấp trên (phía trên dây thanh âm) là chấn thương do nhiệt ở miệng và vòm họng.
Tổn thương ngay lập tức dẫn đến ban đỏ, loét và phù nề. Khi bị bỏng thì việc truyền dịch tích cực là cần thiết để điều trị sốc bỏng, sẽ thúc đẩy sự hình thành phù nề sớm.
Ngoài ra, bỏng ở mặt và cổ có thể gây biến dạng giải phẫu hoặc chèn ép bên ngoài đường hô hấp trên, làm phức tạp việc quản lý đường thở. Ngoài tình trạng viêm cấp tính, tổn thương đường hô hấp còn làm suy yếu quá trình làm sạch của đường thở, dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm khuẩn trong vài tuần. Hơn nữa, việc tăng sản xuất các chất tiết đặc có thể gây tắc nghẽn đường thở ở xa, xẹp phổi và trao đổi khí bị suy giảm.
Tổn thương khí phế quản
Các triệu chứng lâm sàng bao gồm ho dai dẳng và thở khò khè, dịch tiết đường thở có chứa bồ hóng, tăng công thở dẫn đến giảm thông khí, ban đỏ, sung huyết và tăng shunt phổi do xẹp thùy phổi hoặc xẹp phổi.
Vùng khí phế quản được chi phối rất nhiều bởi các đầu dây thần kinh vận mạch và cảm giác. Hít phải khói sẽ kích thích các dây thần kinh này giải phóng các peptide thần kinh. Sau đó, các peptide thần kinh này gây ra co thắt phế quản và enzyme tổng hợp oxit nitric (NOS) để tạo ra các loại oxy phản ứng (ROS).
Các quá trình này góp phần vào sự bất tương hợp thông khí - tưới máu như một cơ chế chính gây ra tình trạng thiếu ôxy sau bỏng hô hấp.
Tổn thương nhu mô phổi
Tổn thương nhu mô phổi được đặc trưng bởi xẹp phổi và xẹp phế nang, dẫn đến tăng dòng dịch xuyên mạch, giảm hoạt chất bề mặt và mất khả năng co mạch do thiếu oxy, do đó quá trình oxy hóa bị suy giảm. Hơn nữa, sự mất cân bằng nghiêm trọng trong cầm máu phế nang và giảm hoạt động tiêu sợi huyết, cùng với sự lắng đọng fibrin trong đường thở sẽ gây ra sự bất tương hợp thông khí - tưới máu. Sự bất tương hợp này trở nên tồi tệ hơn do sự hình thành oxit nitric, gây giãn mạch, tăng lưu lượng máu đến các tiểu phế quản thông khí kém.
Tắc nghẽn đường thở và xẹp phổi sẽ làm tăng nguy cơ viêm phổi. Nguy cơ viêm phổi tăng lên do chức năng của đại thực bào phế nang, bạch cầu đa nhân và cơ chế thanh thải chất nhầy bị suy giảm.
Tóm lại: Bỏng hô hấp là một cấp cứu, tùy theo thể trạng bệnh nhân và mức độ nghiêm trọng của bỏng hô hấp mà bệnh nhân có bị biến chứng sau đó hay không. Các biến chứng có thể gặp là: Suy giảm chức năng phổi, giảm khả năng khuếch tán, hẹp khí quản, giãn phế quản, viêm phổi, bệnh phổi mô kẽ, xơ phổi, hội chứng rối loạn chức năng đường hô hấp phản ứng (RADS) và viêm tiểu phế quản tắc nghẽn. Khả năng bị các biến chứng này là cao hơn ở trẻ em và người cao tuổi.
Trong khi đó bỏng đường hô hấp ở bên trong cơ thể nên khó quan sát, khó điều trị và nhiều biến chứng nguy hiểm. Khi nhiệt độ môi trường quá cao như trong đám cháy, con người hít vào cơ thể khí nóng sẽ gây tổn thương đường niêm mạc, đường thở gồm từ mũi đến phổi.