Năm 2025, trên 80% phụ nữ DTTS có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế

21-09-2023 15:45 | Dinh dưỡng mẹ và bé

SKĐS - Cả nước có 86,4% phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con tại các cơ sở y tế. Các dân tộc: Mường, Tày, Hoa, Khmer và Nùng có tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế khá cao, lần lượt là 99,3%, 99,2%, 99%, 98,7% và 97,1%.

Việt Nam là một trong những nước đầu tiên triển khai chương trình sáng kiến về làm mẹ an toàn sau Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tại Cairo năm 1994. Thực hiện cam kết quốc tế nên ở nước ta, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tất cả phụ nữ trong thời kỳ mang thai đều được khám thai đều đặn định kỳ.

Thực tế cho thấy, hiện nay 88% phụ nữ DTTS mang thai đã đến các cơ sở y tế để khám thai trong lần sinh gần nhất. Một số dân tộc có tỷ lệ phụ nữ khám thai rất cao như dân tộc Thổ 98,3%, Tà Ôi 97,8%, Cơ Ho 97,6%... Cả nước có 86,4% phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) sinh con tại các cơ sở y tế. Các dân tộc: Mường, Tày, Hoa, Khmer và Nùng có tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế khá cao, lần lượt là 99,3%, 99,2%, 99%, 98,7% và 97,1%.

Khoảng 3,9% phụ nữ DTTS sinh tại nhà nhưng có cán bộ chuyên môn đỡ thông qua mô hình cô đỡ thôn bản. Cô đỡ thôn bản là những người sinh sống tại cộng đồng DTTS, sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để truyền đạt cho người dân thôn bản những thông tin quan trọng về chăm sóc sức khỏe, đồng thời cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn ngay tại thôn bản.

Cô đỡ thôn bản phải trải qua quá trình học tập ít nhất 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Toàn quốc hiện có 3.077 cô đỡ thôn bản được đào tạo để hỗ trợ phụ nữ DTTS có thai sinh đẻ an toàn tại nhà.

Năm 2025, trên 80% phụ nữ DTTS có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế - Ảnh 1.

Hiện nay, 88% phụ nữ DTTS mang thai đã đến các cơ sở y tế để khám thai trong lần sinh gần nhất.

Ông Đinh Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế) cho biết, với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời.

Một ví dụ tiêu biểu cho hiệu quả mô hình cô đỡ thôn bản là tại tỉnh Cao Bằng - nơi đồng bào DTTS chiếm trên 90% dân số, từ 2017 đến nay, gần 2.000 lượt phụ nữ có thai đã được cô đỡ thôn bản khám thai và tư vấn; vận động 515 phụ nữ mang thai đến đẻ tại cơ sở y tế; 204 bà mẹ đẻ tại nhà được cô đỡ thôn bản đỡ đẻ.

"Uỷ ban Dân tộc ghi nhận những công lao to lớn của đội ngũ các cô đỡ thôn bản, đã ngày đêm không quản nắng mưa, "vác tù và hàng tổng", đi từng ngõ, gặp từng nhà, tuyên truyền vận động, tư vấn, can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ DTTS trong quá trình mang thai, sinh nở, chăm sóc trẻ em. Công sức của đội ngũ cô đỡ thôn bản đã giúp các thai phụ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ y tế, hạn chế tai biến không đáng có, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong mẹ, trẻ em", ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc xúc động nói tại Hội nghị vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản do Bộ Y tế, Ủy ban Dân tộc và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp tổ chức tháng 3/2023, tại Hà Nội.

Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới nêu quan điểm: "Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển" và yêu cầu các cấp, các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ "Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo".

Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều giải pháp phát triển mạng lưới y tế cơ sở ở vùng DTTS và miền núi. Chẳng hạn như tăng cường đào tạo nhân viên y tế thôn bản và cô đỡ thôn bản cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Yêu cầu các cơ sở y tế huyện, y tế xã, y tế thôn bản phải tích cực tham gia các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân để bảo vệ và nâng cao sức khỏe, các hoạt động về y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chú trọng đào tạo bác sỹ cho y tế xã. Xây dựng và ban hành mức giá, cơ chế thanh toán bảo hiểm y tế đối với thăm khám, đỡ đẻ tại nhà, cung cấp gói đẻ sạch trong một số trường hợp đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; tổ chức các đợt khám bệnh, chữa bệnh lưu động của trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện, bệnh viện huyện tại thôn, bản theo định kỳ...

GS.TS. Trần Văn Thuấn - Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em của Liên Hợp hợp quốc.

Nhằm tiếp tục chăm sóc tốt hơn nữa cho bà mẹ và trẻ em DTTS, trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, có một số dự án liên quan.

Đó là Dự án 7: Chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người DTTS, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em với các nội dung: Chăm sóc dinh dưỡng 1.000 ngày đầu đời cho bà mẹ - trẻ nhỏ lồng ghép trong chăm sóc trước, trong và sau sinh nhằm nâng cao tầm vóc, thể lực người DTTS; chăm sóc sức khoẻ, giảm tử vong bà mẹ, trẻ em; tuyên truyền vận động, truyền thông thay đổi hành vi về chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng bà mẹ, trẻ em; Hỗ trợ phụ cấp cho cô đỡ thôn bản…

Là Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em, trong đó có nội dung triển khai 04 gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khoẻ trẻ em. 4 gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khoẻ trẻ em được các bộ, ngành liên quan thống nhất gồm: Gói 1- Hỗ trợ chăm sóc trước sinh. Gói 2- Hỗ trợ chăm sóc trong sinh. Gói 3 - Hỗ trợ chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh sau sinh tại nhà. Gói 4: Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe trẻ em.

Là Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn, trong đó có nội dung Hỗ trợ bảo vệ và phát triển các DTTS có khó khăn đặc thù thông qua tổ chức hoạt động tư vấn dinh dưỡng, hỗ trợ dinh dưỡng cho bà mẹ trước, trong và sau sinh; khám, quản lý thai nghén và chăm sóc y tế đối với phụ nữ mang thai, hỗ trợ phụ nữ mang thai được tầm soát các loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến; hỗ trợ sinh con đúng chính sách dân số và phương tiện đi lại cho bà mẹ mang thai. Đối với trẻ em dưới 05 tuổi, hỗ trợ trẻ sơ sinh được tầm soát các loại bệnh bẩm sinh phổ biến; điều trị, cung cấp bổ sung dinh dưỡng cho trẻ em dưới 5 tuổi; hỗ trợ đảm bảo bữa ăn dinh dưỡng công thức (cơm/cháo dinh dưỡng công thức ăn liền) cân đối hợp lý và sữa học đường cho trẻ tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

Những giải pháp này của Việt Nam cho thấy, vấn đề chăm sóc sức khoẻ thai sản cho phụ nữ DTTS luôn được quan tâm thúc đẩy cao hơn nữa, bởi tỷ lệ phụ nữ có thai khám thai đầy đủ có liên quan trực tiếp đến tỷ suất tử vong của trẻ dưới 1 tuổi và các tai biến sản khoa của bà mẹ mang thai, hay nói cách khác là liên quan đến quyền sống của bà mẹ và trẻ em - một trong những quyền cơ bản của con người. 

Bằng nhiều giải pháp, Việt Nam phấn đấu đạt mục tiêu đến 2025, trên 80% phụ nữ DTTS có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%; Tối thiểu 80% phụ nữ có thai được phổ biến kiến thức, khám thai định kỳ, hỗ trợ y tế, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng cho 100% trẻ em suy dinh dưỡng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

PV
Ý kiến của bạn