Mùa xuân về lại chùa Bối Khê

06-02-2012 10:27 | Văn hóa – Giải trí
google news

Mùa xuân này, tôi về thăm thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai (Hà Nội) - nơi có ngôi chùa cổ nổi tiếng về nghệ thuật kiến trúc lâu đời.

Mùa xuân này, tôi về thăm thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai (Hà Nội) - nơi có ngôi chùa cổ nổi tiếng về nghệ thuật kiến trúc lâu đời. Bối Khê còn nổi tiếng làng du kích chống Pháp với xã Tam Hưng anh hùng đã đánh thắng máy bay Mỹ. Bối Khê - mảnh đất lịch sử còn vang mãi danh tiếng Nguyễn Trực, ông “trạng hai nước” cách chúng ta trên năm thế kỷ.
 
Đền thờ ông trạng Nguyễn Trực ngay chùa Bối Khê. Đó là một ngôi đền cổ ghi lại công đức của “Lưỡng quốc Trạng nguyên” Nguyễn Trực đỗ đệ nhất tiến sĩ trong số 33 tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) thời Lê Thái Tông – một thời phồn thịnh của nền văn học dân tộc sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược.

Năm 1996, Bộ VHTT đã chi một khoản ngân sách trên 150 triệu để trùng tu và tôn tạo lại di tích lịch sử này.

Trong ngọc phả ghi: Cha Nguyễn Trực là Nguyễn Thì Trung, người làng Bối. Cõ lẽ nơi dựng chùa Bối Khê là nền nhà cũ của gia đình họ Nguyễn có danh vọng từ thời Trần Trùng Quang (1409 - 1413). Ông tổ của Nguyễn Trực là Nguyễn Hữu, dưới triều Trần giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm lĩnh viện sứ. Ông nội là Nguyễn Bính, giữ chức Nho học huấn đạo (như Giám đốc Sở Giáo dục bây giờ). Nguyễn Thì Trung là người có văn học, nối dõi được gia phong.
 
 Chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Nội).
Sau khi Lê Lợi bình định được cả nước, hạ chiếu tìm hỏi những người hiền tài còn bị bỏ rơi, biết Thì Trung là người có văn học, đức hạnh, nhà vua mời về kinh nhận chức Thư khế ở Quốc Tử Giám. Sau già yếu xin về dạy học, giảng sách cho con là Trực. Mẹ Nguyễn Trực là người họ Đỗ, ở làng Nguyễn Bang. Nguyễn Trực được mẹ sinh ra ở am núi Phật Tích, chỗ ở của ông ngoại Nguyễn Trực. Nguyễn Trực ảnh hưởng huyết thống gia đình, được sống ở cạnh núi non hùng vĩ ấy nên đã làm cho ông hiếu học từ bé. Gia đình tuy vào bậc công thần nhưng rất thanh bạch.
 
Nguyễn Trực thường chăn trâu giúp cha mẹ vào trong các chùa chiền nghe kinh sách. Nhiều khi ngồi trên mình trâu mà tay không rời cuốn sách. Ham học không biết mệt mỏi, 12 tuổi, Nguyễn Trực giỏi làm văn; 18 tuổi, đỗ đầu thi hương ở Sơn Tây. Ngày mồng 8 thi trường nhất đỗ loại ưu; ngày 18 thi trường nhì đỗ loại giỏi; ngày 24 thi trường ba đỗ cao và ngày 24/8 thi trường tư đỗ xuất sắc.
 
Cứ thế cho đến năm 26 tuổi thời Lê Thái Tông năm Đại Bảo thứ ba (1442), tháng ba thi hội, thi đình lấy tam khôi. Nguyễn Trực thi đỗ đệ nhất tiến sĩ, bảng vàng quan lễ bộ đem treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đứng đầu 33 tiến sĩ khóa thi năm ấy. Học trò bốn phương nô nức đến tìm xem mặt “trạng”. Thiên hạ gần xa đều ngưỡng mộ ông Trạng của nhà Lê. Ông được phong là Trạng nguyên mở đầu cho nhà Lê. Thái Tông ban áo mũ và ngựa tốt vinh quy về làng.
 
Đời Lê Nhân Tông (1443-1459), đầu niên hiệu Thái Hòa năm Quý Hợi, ông nổi tiếng về văn chương nên được bổ làm Trực học sĩ Viện hàn lâm (1) kiêm Vũ kỵ úy, ít lâu sau, vì sự nghiệp văn chương rạng rỡ được thăng An phủ sứ phủ Nam Sách, khi về triều được bổ chức Thị giảng, thăng đến Trung thư thị lang (phẩm trật vào hàng tòng tam phẩm) ở sảnh Trung thư.

Sau khi ông được cử đi sứ Trung Quốc, gặp khoa thi, Nguyễn Trực muốn cho nhà Minh biết tài học của dân ta nên xin dự thi. Vua Minh phải khen ngợi “đất nào cũng có nhân tài”, lại cho đỗ Trạng nên đời bây giờ gọi Nguyễn Trực là “Trạng nguyên hai nước” (Lưỡng quốc Trạng nguyên). Năm Diên Ninh thứ hai (1459), cũng thời Lê Nhân Tông, gặp lúc triều đình rối ren về chuyện tranh quyền đoạt vị, nhân lúc có đại tang, Nguyễn Trực xin cáo quan về quê, hàng ngày làm thuốc, đọc sách không chán và mở trường dạy học. Sau khi mãn tang, sứ Minh sang, vua đòi về kinh giữ việc tờ bồi qua lại với sứ Minh. Ông họa thơ lưu biệt sứ Minh 50 vận làm vẻ vang cho quốc thể.

Sứ Minh Hoàng Giáp một mực thán phục văn chương uyên bác, tài trí hơn người của Nguyễn Trực. Vua Nhân Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà Nguyễn Trực vẽ truyền thần, để bên cạnh chỗ ngồi của vua để tỏ rằng vua yêu dấu không lúc nào quên được. Sau vua Nhân Tông chết, Nguyễn Trực thảo văn tế, lời lẽ thống thiết, kể hết công đức của các tiến đế đã từng chiến thắng quân Minh, giữ nền độc lập cho xã tắc. Vua Lê Thánh Tông lên ngôi (1469). Nguyễn Trực càng được vua yêu quý.
 
Thánh Tông là vua yêu chuộng văn chương, đứng đầu “Tao đàn nhị thập bát tú”, tự xưng là Tao đàn đô Nguyên súy Thân Nhân Trung, đông các đại học sĩ là Tao đàn phó Nguyên súy, đã từng ca ngợi Nguyễn Trực. Lấy văn chương được các triều tri ngộ mà khiêm tốn, kính cẩn giữ vẹn trước sau “Lê Thánh Tông cho người đem bộ Thiên Thư Nam dư tập là tập thơ của vua đến tận chỗ ở của Nguyễn Trực để Nguyễn Trực đọc nhuận sắc và phẩm bình. Nguyễn Trực thường xuyên khuyên can vua những điều nên làm và không nên làm. Lê Thánh Tông có lúc giận nhưng thấy ông là người trung thực cũng nể; vẫn giữ ông ở lại triều đình.

Nguyễn Trực mất năm 57 tuổi, là năm Hồng Đức thứ 4 (1474), được khắc tên vào bia để thờ trong chùa Bối Khê, bên cạnh tòa sen đá của Đức Phật và các vị La Hán tu hành đắc đạo nơi đây.

Bến Nghé, xuân 2012

 (1) Chức học sĩ bắt đầu có từ thời Lý, nhà Trần,
nhà Lê theo quan chế nhà Lý - phẩm trật ở hàng chánh tứ phẩm

Nhà vănĐoàn Minh Tuấn


Ý kiến của bạn