Với họ, ngày mới mở ra đồng nghĩa với niềm tin được nhen thêm như những tia nắng xuân ấm áp. Từ xa lạ trở thành thân thuộc, từ tuyệt vọng sống dậy niềm tin, từ lang bạt thành chủ gia đình... Suốt gần thế kỷ đã trôi qua, bao đổi thay kỳ diệu ùa đến, hiện hữu trên ngọn đồi này như một hành trình của san sẻ, yêu thương.
Ngôi làng đặc biệt
Bước chân trên nền gạch phủ màu rêu xanh, giữa rộn rã tiếng cười đùa của trẻ thơ, hoài niệm lại trỗi dậy trong tâm thức bà Ka Rượu. Trải qua 71 mùa xuân, bà Rượu thấm hiểu những đớn đau khi gánh trên mình bệnh tật. Cũng hơn ai hết, bà hiểu tận cùng hai chữ “hạnh phúc” khi được cứu rỗi từ vực thẳm của đớn đau.
Cư dân Trại phong cầu bình an cho năm mới.
Lật từ hồi ức, bà Rượu tâm tình: “Đồi nhân ái” là cách gọi thân thương của nhiều người dành cho Trại phong Di Linh (hay Trung tâm Điều trị phong Di Linh). Cũng vào ngày xuân, năm 1926 rong ruổi qua nhiều vùng đất miền Thượng để nghiên cứu, trái tim của vị Giám mục - bác sĩ người Pháp Cassaigne (1895-1973) đã bật lên những khát vọng đậm tình bác ái khi tận mắt ông thấy những thân phận tràn đầy mặc cảm, chân tay lở lói, cứ thấy người lạ là chạy hút vào rừng sâu như thể những nơi cô quạnh, hẻo lánh nhất mới là thế giới của họ.
Suốt nhiều đêm xuân không ngủ, ông Cassaigne xuyên rừng cầm những bàn tay đang rỉ máu, những bàn chân rụng dần từng đốt để băng bó, chữa trị, ý tưởng thành lập trại phong hình thành, năm 1929, Trại phong Di Linh chính thức được khai sinh.
Từ một ngôi nhà nhỏ giữa bạt ngàn cà phê và xanh thẫm cây rừng dành cho một số bệnh nhân phong đầu tiên sinh sống, điều trị, những người Mạ, người Cơ Ho, Ranglai, Chill, Kinh từ các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận... nhanh chóng được Cassaigne cùng các y tá của mình “gom” về. Số bệnh nhân tăng dần theo năm tháng, chọn những vị trí bằng phẳng trên đồi cơi nới, xây thêm nhà, chẳng mấy chốc mang vóc dáng của làng.
Cuộc đời nọ nối tiếp cuộc đời kia ở Trại phong Di Linh nhớ từng câu trong lời tuyên bố của Cassaigne khi ông chịu nhiều áp lực, cản ngăn vì việc làm của mình. Nguyện hết cuộc đời gắn với những bệnh nhân phong, ông luôn khẳng định: Chúng ta không thể vì bảo thủ nguyên tắc vệ sinh theo lối mô phạm khắt khe mà giày xéo lên tình người. Tôi phải đứng ra lo cho họ vì họ quá khốn khổ. Không chữa trị, những người bệnh phong sẽ cụt chân, cụt tay, họ sẽ gục ngã trong cô quạnh...
Trước giờ trút hơi thở cuối cùng vào năm 1973, bác sĩ Cassaigne vẫn thều thào dặn lại: Hãy thương lấy nhau. Rồi những mùa xuân ấm áp lại về, những bệnh nặng lẫn nhẹ sẽ tiếp tục được cứu chữa.
Khi trái tim ông ngừng đập, quả “Đồi nhân ái” nức nở trong nước mắt. Trọng trách chăm chút, điều hành trại phong được giao lại cho nữ tu, cán bộ y tá Mai Thị Mậu. Không quản ngày đêm, sơ Mậu xem mỗi bệnh nhân như một người ruột thị của mình.
Trong trí nhớ của ông K’Bai, bà K’Blang và nhiều bệnh nhân cao tuổi ở Trại phong Di Linh thì: Không có khái niệm ngày xuân, ngày nghỉ với sơ Mậu, tình thương của bà bao trùm cả quả đồi này. Bà nhớ tên, hiểu bệnh từng người. Chẳng những chăm lo sức khỏe, sơ Mậu còn xoay sở đủ đường lo dinh dưỡng, lo tổ ấm cho mấy trăm cư dân bị phong nơi này. Chuyện ma chay, cưới xin, học hành của những người làng phong, bà đều lo tất. Suốt thời tuổi trẻ bà còn băng rừng rậm, vượt suối sâu đi tìm bệnh nhân phong về chữa. Có những ngày kiệt sức, điều sơ Mậu trăn trở nhất vẫn là cuộc sống của các bệnh nhân đã tốt hơn chưa.
Nhớ nhất với nhiều cư dân ở trại phong là mùa xuân năm 1975 - 1976, đất nước còn nhiều khó khăn, một số buôn làng lạc hậu, cứ thấy ai mắc bệnh là đuổi đi. Họ nghĩ rằng, ngày vui, tuyệt nhiên không cho những người “ma hành” đó bén mảng đến. Sơ Mậu lại lóc cóc mang theo cơm nắm đạp xe tìm đến người bệnh để an ủi kịp thời. Có người nhầm tưởng sơ Mậu đuổi theo để bắt lại về buôn nên cuộc tìm kiếm càng thêm cực nhọc. Biết tin nhiều bệnh nhân ở xa, sơ Mậu còn nhảy xe đò đến dìu dắt họ về để điều trị.
Sau mấy thập niên dốc cạn tâm lực vì người khác, mùa xuân năm 2005, sơ Mai Thị Mậu được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu từng nhận xét về sơ Mậu như sau: “Với bà Mai Thị Mậu, phải phong 3 lần anh hùng mới xứng đáng”. Niềm vui trong những ngày xuân ấy rạng ngời trên từng khuôn mặt của tất cả bệnh nhân phong. Khi sức khỏe như chuyến tàu trượt về ga cuối, ở tuổi ngoài 80, sơ Mậu giao việc điều hành, chữa trị ở trại phong cho bà Nguyễn Thị Tiến, Lê Thị Kim Thùy.
Các gia đình trong Trại phong tất bật chuẩn bị đón xuân.
Những mạch nguồn ấm áp
Xa lắm rồi những tháng ngày cô độc, mặc cảm, lẻ loi, mùa xuân này đi trong Trung tâm Điều trị bệnh phong Di Linh như đang trong ngôi làng ngập tràn yêu thương, ấm áp. Chia làm hai khu, với gần 90 hộ gia đình, chủ yếu là người dân tộc thiểu số, những căn nhà bình dị với nhiều lứa tuổi sinh sống xen kẽ trong những thửa vườn tốt tươi hoa trái biểu thị cho sức sống mới đang từng ngày được bồi đắp.
Sau mỗi bậc cửa, những đôi tay lớp trẻ sinh ra lành lặn, khỏe mạnh đã tự biết chăm chút, tu bổ căn nhà của mình. Những cụ già ngồi nhẩm đếm tháng ngày đi qua, biến cố nhường lại cho niềm tin. Bao bọc quanh “Đồi nhân ái” còn có khu phục hồi thể hình cho bệnh nhân, trường mẫu giáo, nhà ăn, nhà thờ.
Liên tục có con đạt danh hiệu học sinh giỏi, K’Đang tâm tình: Gọi đây là “Đồi nhân ái” hay “Làng phong” cũng được. Chúng tôi sống như một đại gia đình, nỗi buồn nhà này cũng là của nhà khác. Không ganh ghét, đố kỵ nhau gì cả. Tiếng “làng” rất đặc biệt với tất cả gần 90 gia đình nơi đây. Xuất thân từ đâu không còn quan trọng, bị hắt hủi từ vùng đất nào dạt tới đây thì tất cả giờ thành làng với nhau rồi, xem đây là quê hương. Người khỏe mạnh sẵn lòng sống cùng người bệnh để chia sẻ buồn vui. Thậm chí, mấy mùa xuân trước thanh niên khỏe mạnh dang rộng vòng tay lập gia đình với người bị hủi ăn mấy ngón chân. Những đứa con sinh ra lành lặn như sợi dây bền chặt, thắp thêm lửa cho sự kết nối gia đình.
Hân hoan như thấy rõ sau mỗi mùa xuân hạnh phúc lại lớn dần thêm, bác sĩ K’Brình bộc bạch: Mình sinh ra và lớn lên trong chính trại phong này nên thấu hiểu hơn ai hết tất cả những thiệt thòi, tủi phận và nghị lực vươn lên không mệt mỏi của nhiều thân phận. Chính vậy nên, may mắn lành lặn, nhủ với lòng, phải học thật giỏi và nung nấu một ý nghĩ duy nhất là thành bác sĩ để quay về chữa trị, sinh sống trên “Đồi nhân ái” này.
Từ bỏ tất cả những chốn phồn hoa, ngay sau khi tốt nghiệp Đại học Y TP. Hồ Chí Minh, bác sĩ K’Brinh khoác ba lô về lại trại phong lao vào chăm sóc sức khỏe cho người thân lẫn người làng mà từ ấu thơ anh đã xem như thân thuộc. Cũng như K’Brình, bác sĩ K’Đỉu sau bao ngày miệt mài đèn sách cũng trở về “Đồi nhân ái”- nơi anh từng bao đêm khóc cạn nước mắt vì chứng kiến người thân quằn quại trong cơn đau bởi những con vi khuẩn Han-xen.
Lớp trẻ làng phong đã khỏe mạnh, không bệnh tật.
Như sự tiếp nối mạch nguồn yêu thương và khát vọng khôi phục sức khỏe cho những bệnh nhân phong, nhiều thanh niên ở “Đồi nhân ái” vượt lên mọi mặc cảm, trở thành những y tá, y sĩ của làng như: Ka Thủy, Ka Rụng, Ka Riềm...
Vừa tất bật chuẩn bị xong những vật dụng cần thiết cho những ngày Tết Canh Tý, nhiều gia đình trong Khu điều trị bệnh phong Di Linh lại lần lượt đứng trước nhà thờ ở giữa ngọn đồi và mộ phần của bác sĩ, linh mục Cassaigne để cầu cho những bình an luôn đến với nơi này. Dẫu đã bị rụng mất 3 ngón tay nhưng xuân năm nào, K’Đang cũng phụ giúp nhiều gia đình khác sửa chữa cánh cửa, cầu thang hoặc phát quang cây cối, bụi rậm. K’Đang ước vọng rằng: Rồi một ngày căn bệnh này chỉ còn trong dĩ vãng. Hiện nay, sự tận tâm của các y, bác sĩ đã cải thiện rất nhiều. Người trẻ sinh ra hầu như không còn dính bệnh phong nữa. Ngày Tết, ngay cả đêm giao thừa, các nhân viên y tế vẫn túc trực bên các bệnh nhân nặng nên ai cũng cảm thấy ấm lòng.
Dưới những tán cây đang bung bật chồi non, những cư dân thôn Ka Rọt, thôn Rờ Màng... sinh sống cạnh kề Khu điều trị bệnh phong Di Linh rộn rã tâm tình cởi mở cùng các bệnh nhân. Họ còn thuộc nhiều nhánh đường, ngôi nhà trên “Đồi nhân ái”, xem việc tìm đến nhau như một nghĩa cử sống chan hòa, bình đẳng. Những đứa trẻ của các gia đình bệnh phong hòa nhập với cộng đồng, lớn dần lên với ý nghĩ và niềm tin về mọi điều tốt đẹp đang vẫy gọi phía trước.