Mùa xuân, cảnh giác bệnh thủy đậu

10-03-2011 08:20 | Tin nóng y tế
google news

Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm, dễ lây lan. Bệnh thủy đậu còn được gọi là bệnh phỏng dạ và thường hay xuất hiện vào mùa đông - xuân, bệnh gây nên bởi một loại virut Varicella - Zolster.

Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm, dễ lây lan. Bệnh thủy đậu còn được gọi là bệnh phỏng dạ và thường hay xuất hiện vào mùa đông - xuân, bệnh gây nên bởi một loại virut Varicella - Zolster. Virut này rất có ái tính với da, niêm mạc và hệ thống thần kinh. Bản chất của bệnh thủy đậu là một bệnh lành tính nhưng cũng có thể có một số bị biến chứng và biến chứng nguy hiểm. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng trẻ em từ 2 - 10 tuổi hay gặp nhất .

Nhận diện bệnh thủy đậu

Bệnh thủy đậu thường có 2 thể bệnh chính: thể thông thường, điển hình và thể thủy đậu bất thường. Đối với thể thông thường khi bệnh khởi phát có sốt nhẹ (khoảng 38oC) và viêm long đường hô hấp trên như chảy nước mũi, đau mình, mệt mỏi, trẻ hay quấy khóc, ăn kém. Đôi khi ở thời kỳ này có thể sốt cao 39 - 40oC, xuất hiện một số triệu chứng về thần kinh như trằn trọc khó ngủ, mê sảng. Thời kỳ toàn phát, ban xuất hiện khá nhanh, mới đầu là các nốt sẩn đỏ giống với ban sởi xuất hiện ở vùng da đầu, gáy, bụng, lưng, ngực, sau vài giờ các ban phát triển thành nốt phỏng rải rác khắp thân mình và tứ chi (trừ gan bàn chân, bàn tay). Đặc điểm của của nốt phỏng là nước trong, rất nông, tròn hay bầu dục, có vòng đỏ bao quanh, một số nốt thủy đậu hơi lõm ở trung tâm và nốt phỏng thủy đậu mọc không theo tuần tự (khác với sởi là ban mọc tuần tự). Ban, nốt phỏng mọc hết đợt này đến đợt khác cách nhau từ 2-3 ngày, vì vậy trên cùng một vùng da các ban mọc không cùng một lứa tuổi (có ban đỏ, có nốt phỏng nước, có nốt đã bong vảy...). Một số vùng niêm mạc như trong vòm miệng, niêm mạc âm đạo... cũng có thể có các nốt phỏng thủy đậu. Khi các ban và nốt phỏng xuất hiện thường có ngứa cho nên bệnh nhân gãi nhiều làm vỡ các nốt phỏng rất dễ làm nốt thủy đậu nhiễm khuẩn. Đặc điểm của thủy đậu là các nốt phỏng chỉ có một ngăn cho nên khi bị thủng là dịch chảy ra và xẹp ngay. Ngoài ngứa có thể nổi hạch ngoại biên như hạch nách, hạch bẹn, cổ... nhưng hạch tồn tại trong thời gian ngắn rồi xẹp dần. Thời kỳ lui bệnh chỉ sau khoảng từ 24 - 48 giờ thì các nốt phỏng sẽ ngả sang màu vàng và vỡ ra, sau khi khỏi thì không để lại sẹo trừ trường hợp bị bội nhiễm vi khuẩn. Thông thường mỗi một nốt thủy đậu kéo dài khoảng 5 - 6 ngày rồi khô lại, đóng vảy. Màu của nốt thủy đậu lúc này là màu nâu xám và bong sau khoảng một tuần lễ. Bên cạnh thủy đậu thông thường có thể gặp loại thủy đậu bất thường. Thủy đậu bất thường ít khi gặp chỉ thấy ở những trường hợp bội nhiễm vi khuẩn thì nốt thủy đậu có mưng mủ dễ nhầm với nốt đậu mùa. Ở những bệnh nhân mắc bệnh về máu thì nốt thủy đậu có thể có máu hoặc bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng thì nốt thủy đậu có thể có hoại tử. Thủy đậu cũng có thể gây viêm niêm mạc miệng, niêm mạc âm hộ, âm đạo, viêm tai  ngoài, viêm tai giữa, viêm thanh quản. Một số trường hợp nặng có thể gây viêm thận cấp (tiểu ra máu) nhưng sau khoảng vài tuần sẽ khỏi. Thủy đậu cũng có thể gây viêm não - màng não là một biến chứng hết sức nguy hiểm. Trong giai đoạn đầu của bệnh thủy đậu có thể nhầm với bệnh viêm đường hô hấp, sởi, bệnh Rubella. Một số trường hợp khi mắc bệnh thủy đậu thể nhẹ (đặc biệt là người trưởng thành) và chỉ có ở tay hoặc chân kèm theo ngứa có thể nhầm với viêm da dị ứng do các bệnh sốt phát ban khác hoặc bệnh ghẻ. Bệnh thủy đậu cũng có thể nhầm với bệnh zona (đây là một bệnh gây nên do cùng một loại virut gây bệnh thủy đậu). Bệnh zona thường có các nốt phỏng mọc theo dọc dây thần kinh và thường chỉ có một bên của cơ thể (một bên lưng, một bên ngực, một bên mặt…).

 Quá trình thâm nhiễm, phát triển và thoái lui của bệnh thủy đậu.

Phòng bệnh thủy đậu như thế nào?

Cách ly với người bệnh: Khi trong gia đình hay một tập thể (nhà trẻ, lớp mẫu giáo) có trẻ mắc bệnh nghi do thủy đậu cần được cách ly trẻ bệnh với trẻ lành (cho trẻ ở nhà với gia đình không nên đến lớp học). Những người lớn mà chưa bao giờ bị bệnh thủy đậu cũng cần tránh tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu. Mặt khác bệnh thủy đậu ngoài lây theo đường hô hấp còn có thể lây trực tiếp từ các nốt phỏng cho nên khi trẻ chỉ có vài ba nốt thủy đậu cũng cần được cách ly với người lành. Cần vệ sinh giường, chiếu, đồ dùng sinh hoạt của bệnh nhân. Nên cho trẻ nằm trong phòng thoáng nhưng kín gió, không ẩm ướt. Cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ để nâng cao sức đề kháng. Phòng bệnh tốt nhất vẫn là dùng vaccin cho trẻ và cả người lớn chưa có miễn dịch với bệnh thủy đậu.

Phòng nốt thủy đậu lây lan trên cơ thể: Để tránh bệnh thủy đậu lây lan ra nhiều vùng da trên cơ thể và lây lan cho người khác thì khi bị mắc bệnh cần giữ vệ sinh da sạch sẽ để tránh nhiễm khuẩn. Có thể dùng lá ổi rửa sạch, cho nước vào đun sôi, để hơi ấm rồi dùng vải thô sạch nhúng nước lá ổi lau nhẹ nhàng, tránh làm xây xước da (vì làm xước da, nước trong nốt phỏng chảy đến đâu sẽ gây nốt ban thủy đậu đến đó). Sau khi lau, tắm xong cũng dùng vải thô sạch thấm khô da rồi mặc quần, áo rộng, thoáng. Khi có nhiều nốt phỏng vỡ cần đi khám để được hướng dẫn điều trị phòng sốc do mất nước, nhiễm khuẩn, nhiễm độc bởi độc tố vi khuẩn.

Chẩn đoán bệnh thủy đậu như thế nào?

Muốn chẩn đoán bệnh thủy đậu trước hết nên dựa vào một số đặc điểm như bệnh khởi phát đột ngột, sốt nhẹ, ban mọc ngay ngày đầu của bệnh. Ban chỉ có nốt phỏng nước, không có mủ (nếu không bị nhiễm khuẩn). Ban mọc không tuần tự, trên một vùng da ban mọc thành nhiều đợt, mỗi một đợt cách nhau khoảng từ 3 - 4 ngày. Nếu có điều kiện xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch cầu máu ngoại vi giảm nhưng lymphocyt tăng. Ngoài ra có thể dựa vào tính chất dịch tễ học, ví dụ như trong một nhà trẻ, lớp mẫu giáo đã có một số cháu mắc bệnh tương tự nhất là các cháu chưa bao giờ bị mắc thủy đậu.

PGS.TS.TTƯT.Bùi Khắc Hậu 


Ý kiến của bạn