Ung thư da là dạng ung thư phổ biến nhất hiện nay. Tại Việt Nam, ung thư da đứng hàng thứ 8/10 loại ung thư thường gặp nhất với tỷ lệ trung bình 2,9-4,5 trường hợp/100.000 dân, bệnh thường gặp ở độ tuổi 54-65. Điều đáng mừng là nếu được phát hiện sớm thì có khả năng điều trị khỏi rất cao.
Các loại ung thư da thường gặp
Ba loại ung thư da thường gặp là ung thư biểu mô tế bào đáy (75%), ung thư biểu mô tế bào gai (20%) và ung thư tế bào hắc tố (5%). Ngoài ra, còn một số ung thư da khác ít gặp hơn như ung thư tế bào xơ, ung thư tế bào Merkel, ung thư tế bào tuyến bã... Việc chẩn đoán xác định ung thư da đôi khi gặp không ít khó khăn, phải dựa vào lâm sàng và giải phẫu bệnh.
Ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào gai đều ở bề mặt da, phát triển chậm và khả năng chữa lành cao, nhất là khi được phát hiện sớm. Loại ung thư tế bào hắc tố nặng hơn, ảnh hưởng đến các lớp sâu của da, có nguy cơ di căn đến các mô khác với tỉ lệ tử vong cao nhất trong ba loại ung thư da. Biểu hiện lâm sàng của các loại ung thư da rất đa dạng nhưng điều quan trọng nhất là khi có một thương tổn da lâu lành, có vết loét dai dẳng hoặc một đám sắc tố không đồng đều, phát triển bất thường thì chúng ta cần đến khám chuyên khoa da liễu.
Điều đáng mừng là hầu hết các loại ung thư da đều có thể phòng ngừa được bằng cách tránh hoặc hạn chế tiếp xúc thường xuyên với tia tử ngoại. Cần chú ý phát hiện sớm những biến đổi trên da bạn vì hầu hết các loại ung thư da đều có khả năng được chữa khỏi rất cao ngay từ khi mới khởi phát. Nếu không được điều trị sớm hoặc điều trị không đúng, ung thư da sẽ ngày càng phát triển, di căn đến những cơ quan khác và ảnh hưởng xấu đến tính mạng người bệnh. Ung thư da đã cướp đi mạng sống của hàng chục nghìn người trên thế giới mỗi năm.
Ung thư tế bào hắc tố. |
Điều trị ung thư da
Nguyên tắc chung của điều trị ung thư da là loại bỏ sớm nhất toàn bộ tổ chức ung thư. Trong trường hợp nghi ngờ, cần phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ thương tổn và làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định chẩn đoán. Cắt sinh thiết chỉ nên thực hiện khi thương tổn quá rộng không thể phẫu thuật lấy hết ngay. Các phương pháp điều trị ung thư và sang thương tiền ung thư da thay đổi tùy theo kích thước, phân loại, độ ăn sâu và vị trí của một hoặc nhiều sang thương. Có nhiều biện pháp điều trị được áp dụng như phẫu thuật cắt bỏ rộng thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn có kiểm soát bằng giải phẫu bệnh (phẫu thuật Mohs), phẫu thuật lạnh, đốt bỏ thương tổn, xạ trị, hóa chất, liệu pháp sinh học hay miễn dịch liệu pháp, quang động học liệu pháp…
Các loại thuốc điều trị ung thư da hiện nay
1. Ung thư tế bào hắc tố
Thuốc yervoy (ipilimumab) được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ FDA phê chuẩn ngày 25/3/2011 và thuốc Zelboraf (vemurafenib) được FDA phê chuẩn ngày 17/8/2011 cho phép sử dụng để điều trị ung thư tế bào hắc tố giai đoạn cuối hay ở những trường hợp ung thư tế bào hắc tố không thể phẫu thuật được.
Yervoy dạng tiêm tĩnh mạch, là một kháng thể đơn dòng có tác dụng ức chế phân tử CTLA-4, một phân tử đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn khả năng chống lại tế bào ung thư của cơ thể. Yervoy giúp hệ thống miễn dịch của cơ thể nhận ra, nhắm đúng mục tiêu và tấn công loại bỏ các tế bào trong khối u hắc tố.
Zelboraf (vemurafenib) dạng thuốc viên uống, chỉ có tác động lên các khối u hắc tố ác tính có gen lỗi BRAF V600E là gen đột biến tích cực gây di căn. Zelboraf có thể giúp kéo dài cuộc sống thêm 6 - 8 tháng cho 84% bệnh nhân bị ung thư tế bào hắc tố giai đoạn cuối.
Ung thư biểu mô tế bào đáy. |
2. Ung thư biểu mô tế bào đáy
Ngày 30/1/2012, Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ FDA vừa phê chuẩn việc sử dụng thuốc Erivedge (vismodegib) để điều trị bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy, loại ung thư da phổ biến nhất hiện nay.
Thuốc được dùng cho những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ, không có chỉ định phẫu thuật hay xạ trị và cho những bệnh nhân ung thư da đã di căn đến những bộ phận khác của cơ thể.
Erivedge là loại thuốc uống điều trị ung thư biểu mô tế bào đáy di căn đầu tiên được FDA phê chuẩn.
Sự an toàn và hiệu quả của Erivedge được đánh giá trong một nghiên cứu điều trị cho 96 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ hoặc di căn. Kết quả có 30% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy di căn có tổn thương co rút từng phần đáp ứng với thuốc Erivedge và 43% bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển tại chỗ có đáp ứng một phần hoặc hoàn toàn.
Erivedge có dạng thuốc viên, uống một lần mỗi ngày, hoạt động bằng cách ức chế lộ trình phân tử hoạt động Hedgehog của các tế bào đáy ung thư, chỉ còn chừa lại một ít mô bình thường như nang lông chẳng hạn. Đây là một phương pháp điều trị hiệu quả với ít khả năng gây tác dụng phụ.
Các tác dụng phụ phổ biến nhất ở những bệnh nhân được điều trị với Erivedge là: co thắt cơ, rụng tóc, giảm cân, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, mệt mỏi, chán ăn, táo bón, rối loạn vị giác.
Erivedge (Vismodegib) được FDA phê duyệt với cảnh báo về nguy cơ tiềm năng gây các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng hoặc tử vong cho bào thai. Do đó, tình trạng mang thai phải được xác định trước khi bắt đầu dùng Erivedge. Bệnh nhân, cả nam và nữ, phải được cảnh báo về những rủi ro và sự cần thiết phải kiểm soát sinh sản khi dùng thuốc.
Nguy cơ mắc bệnh ung thư da xảy ra ở tất cả những người mà da không thường xuyên được bảo vệ khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, với các nguồn hóa chất, các sản phẩm nhựa, than đá, thạch tín; các vết sẹo bỏng cũ lâu ngày do vôi, xăng, acid; các vết loét hay ổ viêm nhiễm mạn tính và cũng có thể do hóa chất làm đẹp không an toàn. 95% trường hợp ung thư da xảy ra ở vùng da hở; trong đó, vùng mặt chiếm trên 80%.
BS. Lê Đức Thọ