Những con số biết nói
Để đánh giá tác động tiềm tàng của thuốc kháng sinh đối với nguy cơ sẩy thai, TS.Muanda và các đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu thai kỳ ở Quebec (Canada) cho các trường hợp mang thai, nghiên cứu kéo dài trong 12 năm (hiện nghiên cứu vẫn tiếp tục thu thập thêm các thông tin về tất cả các trường hợp mang thai của phụ nữ được bảo hiểm theo Chương trình Bảo hiểm thuốc kê đơn cộng đồng của bang Quebec). Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu là những phụ nữ có thai trong độ tuổi từ 15 đến 45 và có bảo hiểm ít nhất 1 năm trước và trong thời gian mang thai, tính từ ngày đầu tiên của thai kỳ. Những phụ nữ được ghi nhận lâm sàng sẩy thai tự phát trước tuần thai 20 được xem là các ca bệnh. Đối với mỗi trường hợp, các tác giả xác lập nhóm chứng là các bệnh nhân từ việc đối chứng theo tuổi, năm thai nghén và ngày mang thai (cách biệt chỉ trong vòng 3 ngày). Có 182.369 trường hợp mang thai đã đạt được các tiêu chuẩn thu nhận vào nghiên cứu.
Trong dữ liệu này, việc sử dụng thuốc kháng sinh xảy ra ở 12.446 trường hợp trong số những trường hợp mang thai, trong đó 1.428 ca đã được ghi nhận sẩy thai tự phát, chiếm 16,4%. Phụ nữ sẩy thai tự phát có độ tuổi trung bình là 28,7 tuổi, phụ nữ trong nhóm chứng có độ tuổi trung bình là 27,8 tuổi. Các phụ nữ sẩy thai tự phát cũng có tỷ lệ cao hơn mắc bệnh như trầm cảm và hen suyễn, có tiền sử khám ở bệnh viện hoặc cấp cứu trước khi mang thai và tiền sử sử dụng thuốc quá liều.
Các kháng sinh có nguy cơ cao
Sử dụng thuốc kháng sinh trong thai kỳ được định nghĩa là: Đã có ít nhất 1 đơn thuốc cho bất kỳ loại kháng sinh nào kể từ ngày đầu tiên của thai kỳ cho tới ngày sẩy thai, hoặc trước khi mang thai nhưng thời gian dùng thuốc chồng lên ngày đầu tiên của thai kỳ. Các thuốc trong nghiên cứu bao gồm các nhóm cephalosporin, macrolide, penicillin, quinolone, sulfonamid, tetracycline, antiprozozoal và một số kháng sinh khác.
Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu có thể, nguy cơ sẩy thai tự phát gia tăng liên quan đến một số loại kháng sinh đặc biệt so với không dùng kháng sinh, các nhà khoa học đã có những kết quả về nguy cơ gây sảy thai ở tùy loại kháng sinh. TS.Flory T. Muanda - Khoa Dược, Đại học Montréal, Quebec và các cộng sự công bố trong một bài báo đăng tải mới đây trên Tạp chí y khoa Canada cho biết: Các kháng sinh nhóm macrolide (trừ erythromycin), quinolone, tetracycline, sulfonamide và metronidazole, đều có nguy cơ cao hơn so với các kháng sinh nhóm penicillin, cephalosporin. Theo các tác giả, những phát hiện này nên được xem xét khi cập nhật mới hướng dẫn điều trị nhiễm khuẩn trong thai kỳ.
Để xác định các nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến bệnh nhiễm trùng, các tác giả đã lặp lại phân tích, sử dụng những loại thuốc có nhiều dữ liệu an toàn nhất - penicillin và cephalosporin. Đến cuối cùng, các kết quả vẫn không thay đổi.
Họ cũng tiến hành phân tích hai nhóm nhỏ bao gồm chỉ những trường hợp mang thai có nhiễm khuẩn đường tiết niệu hoặc nhiễm khuẩn đường hô hấp. Trong nhóm nhiễm khuẩn tiết niệu, tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh liên quan đến tiếp xúc với quinolone so với sử dụng penicillin là 8,73 (khoảng tin cậy 95%).
Trong nhóm nhiễm khuẩn đường hô hấp, sử dụng macrolide có xu hướng gia tăng nguy cơ sẩy thai tự phát so với penicillin nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Các tác giả cho biết, những phát hiện của họ đồng nhất và góp phần củng cố dữ liệu so với các nghiên cứu khác đã được thực hiện. Từ đó, nhóm tetracyclines và quinolones được đưa vào trong mục “Hỗ trợ các hướng dẫn điều trị hiện hành trong sản khoa” đó là: khuyến cáo không nên sử dụng các loại thuốc này trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Thêm vào đó, kết luận của nghiên cứu cho thấy, metronidazole có liên quan đến sự gia tăng 70% nguy cơ sẩy thai tự phát.
Với tư cách khách quan bàn luận về báo cáo này, PGS.TS. Jason G. Newland - Khoa nhi, trường Đại học Y Washington, St. Louis và là phát ngôn viên của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ, chia sẻ về quan điểm của mình với những kết quả này trước báo chí: Tôi đồng ý với cách giải thích của tác giả về các phát hiện của họ. Các nhà nghiên cứu đã không quá lời về những tuyên bố của họ về hậu quả tiêu cực của việc sử dụng kháng sinh.
PGS.TS. Newland khẳng định: Nghiên cứu này đã được thiết kế tốt và nhấn mạnh được một số hậu quả tiêu cực có thể xảy ra khi sử dụng kháng sinh trên đối tượng phụ nữ mang thai, đặc biệt trong các trường hợp kê đơn không phù hợp.
Kháng sinh là thuốc cứu sinh, nhưng có những hậu quả tiêu cực khi chúng ta không sử dụng chúng hợp lý và chúng ta có thể tránh được những chỉ định bất hợp lý này. Nghiên cứu này sẽ như một lời nhắc nhở các bác sĩ lâm sàng tạm dừng và xem xét tác động của việc sử dụng kháng sinh trong những tình huống nhất định, nhắc về những hậu quả tiêu cực có thể có với những loại thuốc kháng sinh mà đôi khi chúng ta đang sử dụng rất tự do.