Bệnh nhân là nữ, 36 tuổi, tiền sử khỏe mạnh. Bệnh nhân được gây tê bằng Lidocaine 2% để nhổ răng, sau nhổ răng 10 phút xuất hiện mẩn ngứa, mệt thỉu, khó thở, lơ mơ. Bệnh nhân đã được chẩn đoán phản vệ với lidocaine và xử trí bằng tiêm bắp adrenalin 0,5 mg/ lần. Sau tiêm bệnh nhân đỡ mệt, sau 10 phút bệnh nhân lại xuất khó thở mệt nhiều và được tiêm adrenaline nhắc lại khoảng 20 lần, cả trên đường chuyển đến bệnh viện địa phương.
Tại bệnh viện địa phương, bệnh nhân tỉnh, Glasgow 15 điểm, khó thở, tím môi và đầu chi, phổi nhiều ran ẩm, được truyền adrenalin tĩnh mạch liên tục và tăng liều, huyết áp không đo được, nhịp tim 160 lần/phút, nhịp xoang đều.
Các bác sĩ đã tiến hành đặt nội khí quản, thở máy, solumedrol 80 mg tiêm tĩnh mạch chậm, dimedrol 40 mg tiêm bắp. Sau 10 phút xuất hiện ngừng tuần hoàn, cấp cứu trong 2 phút có tim đập trở lại, nhịp tim 150 – 170 lần/phút, huyết áp 70/40 mmHg, SPO2 90%, nhiều bọt hồng qua nội khí quản, CVP 20 cmH2O, thở máy với PEEP 12 cmH2O và tăng lên 18 cmH2O, VT 6 ml/kg. Sau 4h thở máy, duy trì adrenalin tăng dần lên đến 1,4 mcg/kg/phút, truyền dịch Naclorua 0,9% x 3000 ml, gelofunsin 4% 1000 ml, tình trạng không cải thiện, xuất hiện rung thất và ngừng tuần hoàn cấp cứu trong khoảng 1 phút có tim đập lại. Sau đó, bệnh nhân được chuyển đến BV Bạch Mai.
Tại BV Bạch Mai, BS. Phạm Thế Thạch, Khoa Hồi sức tích cực cho biết, bệnh nhân tỉnh chậm, thở máy qua nội khí quản, huyết áp 85/40mmHg (adrenaline 1,4 mcg/kg), mạch 135l/phút, tím môi và đầu chi, SPO2 94%, CVP 27 mmHg, gan to 3cm dưới bờ sườn, siêu âm tim thấy giảm vận động đồng đều các thành tim, EF 12%, hở van hai lá, áp lực động mạch phổi 35 mmHg. Hình ảnh chụp X-quang cho thấy tràn khí màng phổi trái...
Các bác sĩ chẩn đoán, bệnh nhân có tình trạng phản vệ nguy kịch có biến chứng suy đa tạng. Do đó đã tiến hành xử trí: thở máy PEEP 5 CmH2O, VT 400 ml, FiO2 100%, duy trì adrenaline và giảm dần liều, furosemide, lọc máu liên tục.
10h sau khi vào khoa Hồi sức tích cực, bệnh nhân tỉnh, Glasgow 15 điểm, huyết áp 110/ 70 mmHg, nhịp tim 130 lần/phút, nước tiểu 200 – 300 ml/h, lactat tăng 10,8 mmol/l. Sau đó 10 phút xuất hiện rung thất, mất ý thức, mất mạch cảnh và mach bẹn, điện tim. Các bác sĩ tiếp tục tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn, sốc điện phá rung 360J/ lần 3 lần, và tiến hành kỹ thuật tim phổi nhân tạo (ECMO) phương thức tĩnh mạch – động mạch (V – A ECMO) dưới hướng dẫn siêu âm, với các thông số ban đầu CO 3,0 l/phút CI 2,0 FiO2 100%, MV 6,2 l/phút.
Ngay sau đó giảm và ngừng adrenalin, cài đặt máy thở mode PCV PC 12 cmH2O, PEEP 5 cmH2O, tần số 5 lần/phút, FiO2 50%, duy trì SPO2 96 – 100%, dẫn lưu khí màng phổi hút liên tục áp lực âm 30 cmH2O, tiếp tục duy trì lọc máu liên tục.
Sau 2 ngày, bệnh nhân có biểu hiện sốt 39 độ C, X-quang mờ lan tỏa hai phổi, procalcitonin tăng 71,8 ng/ml, nên đã được bổ sung thêm kháng sinh meropenem và colistin.
Sau 6 ngày tim phổi nhân tạo và lọc máu liên tục, tình trạng bệnh nhân cải thiện, siêu âm EF 39%, không sốt, X-quang không có tràn khí màng phổi nên đã cai và rút ECMO. Sau 1 ngày rút nội khí quản, dừng lọc máu liên tục. Bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, không có di chứng và xuất viện sau 2 tuần điều trị.
Phản vệ hiếm gặp trong gây tê nhưng tỉ lệ tử vong cao
Đánh giá về ca bệnh này, BS. Thạch cho biết: Ngay khi phát hiện phản vệ bệnh nhân đã được xử trí cấp cứu bằng adrenalin tiêm bắp 20 lần và truyền tĩnh mạch liên tục, prednisolone nhưng không cải thiện. Bệnh nhân có suy hô hấp và ngừng tuần hoàn 3 lần, đã được thở máy xâm nhập, lọc máu liên tục. Sau khởi phát 10 giờ, xuất hiện ngừng tuần hoán do rung thất, đã được sốc điện 2 lần, tiến hành V-A ECMO. Bệnh nhân cai và rút được ECMO sau 6 ngày và rút nội khí quản thành công 1 ngày sau đó.
"ECMO là một biện pháp được chỉ định trong các suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp tính không đáp ứng với các biện pháp hồi sức tích cực khác Vai trò của ECMO là đảm bảo tưới máu tạng, cung cấp oxy cho mô và đào thải khí carbonic. Đây là trường hợp phản vệ nguy kịch do Lidocaine có biến chứng ngừng tuần hoàn và suy đa tạng hi hữu được điều trị thành công bằng kỹ thuật ECMO"- BS. Thạch cho biết thêm.
Cũng theo các bác sĩ, phản vệ là một tình trạng nặng đe dọa tính mạng nhưng hiếm gặp trong quá trình gây tê (tần suất 1/6000), tỉ lệ tử vong cao khoảng 5%. Các rối loạn và mức độ nặng của phản vệ tùy thuộc vào đáp ứng của từng cá thể, liều dị nguyên và thời gian tiếp xúc dị nguyên… Tuy nhiên nếu không có các cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
Lidocaine là thuốc gây tê được sử dụng phổ biến để gây tê tại chỗ nhằm giảm đau, được sử dụng phổ biến trong các tiểu phẫu trong đó có nhổ răng. Đây là loại thuốc an toàn có rất ít phản ứng phụ nhưng phản ứng phản vệ nặng có thể xảy ra.