Một nhip cầu kết nối văn hóa Việt - Nga

11-09-2008 4:46 PM | Quốc tế

Giáo sư, viện sĩ Nicolai Ivanovits Niculin: Quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc là một thực tại tất yếu, xuyên suốt trong lịch sử của bất kỳ một quốc gia - dân tộc nào trên thế giới.

Quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc là một thực tại tất yếu, xuyên suốt trong lịch sử của bất kỳ một quốc gia - dân tộc nào trên thế giới. Trong đó, những nhà văn hóa đóng một vai trò hết sức quan trọng. Họ vừa là chủ thể, vừa là tác nhân, lại vừa là sản phẩm tuyệt vời của quan hệ giao lưu văn hóa giữa dân tộc này với dân tộc khác. Trong giao lưu văn hóa Việt - Nga, nhà Việt Nam học nổi tiếng thế giới người Nga, Viện sĩ N.I.Niculin (1931 - 2006) chính là một trong những nhà văn hóa như vậy.

Giáo sư, viện sĩ Nicolai Ivanovits Niculin.
Ngay sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, Niculin đã có mặt tại Hà Nội với tư cách một nhà khoa học trẻ tuổi đang hăm hở chiếm lĩnh những bề rộng và chiều sâu của lịch sử văn hóa - văn học Việt Nam. Suốt nửa thế kỷ “thâm canh” trong phạm vi nghiên cứu này, ông đã để lại hơn 300 đề mục khoa học với hàng ngàn trang in, bao quát lịch sử văn hóa - văn học Việt Nam từ chiều sâu ngàn năm văn hiến tới chính nền văn hóa - văn học đương đại. “Với kiến văn sâu rộng, ông đã góp thêm những khám phá mới mẻ về ngọn nguồn văn hóa Đông Sơn với quan niệm về “cây thế giới”; về nền tảng văn hóa Bắc Bộ và bản lĩnh dân tộc với sự định hình truyền thuyết Ông Đống và Phù Đổng; về phức hợp thần thoại Việt - Mường miền Tây - Tây Bắc Bắc Bộ với sự hình thành văn học và bản chất thể loại của Đẻ đất đẻ nước; về bản sắc vùng văn hóa Tây Nguyên với các đặc trưng “cuộc cầu hôn anh hùng” trong sử thi Êđê và đặc điểm nguyên hợp có tính loại hình của tác phẩm Hmon Đămnoi trong folklore Bana...” (Nguyễn Hữu Sơn: Nửa thế kỷ đồng hành cùng văn học Việt Nam). Đó là nói sơ qua về mảng văn hóa - văn học dân gian, còn với bộ phận văn học thành văn - gồm cả giai đoạn trung đại và hiện đại - thì: “... có thể khẳng định rằng hầu hết các vấn đề, các tác giả và các tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam đều đã được N.I.Niculin quan tâm tìm hiểu - điều mà không phải bất cứ một nhà nghiên cứu tên tuổi nào cũng đạt tới” (Nguyễn Hữu Sơn, bài đd). Hiệu quả của hoạt động nghiên cứu của Niculin có thể và cần phải được nhìn từ hai phía. Một mặt, rõ ràng ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu văn hóa - văn học Việt Nam với nhân dân Nga, bắc một nhịp cầu thông hiểu từ đất nước Nga vĩ đại tới đất nước Việt Nam anh em. Mặt khác, với sự trang bị những phương pháp luận khoa học đúng đắn và mới mẻ, với lợi thế khách quan của một cái nhìn từ bên ngoài, ông đã giúp người Việt Nam hiểu sâu thêm và nhiều hơn về chính nền văn hóa - văn học của dân tộc mình. Không hồ nghi gì nữa, trong bối cảnh mà quá trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với thế giới đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, những tri thức về Việt Nam cho người Việt Nam mà Niculin cung cấp hẳn sẽ có một ý nghĩa không nhỏ đối với chúng ta.

Về những đóng góp to lớn của Niculin cho ngành Việt Nam học, nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích và đánh giá khá chi tiết, người viết bài này sẽ không nhắc lại mà chỉ xin kể ra ở đây một “thu hoạch” thú vị nho nhỏ khi đọc tuyển tập nghiên cứu có tên Dòng chảy văn hóa Việt Nam của ông (Hồ Sĩ Vịnh và Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu. NXB Văn hóa thông tin, 2006). Hóa ra, không cần phải chờ đến Cách mạng Tháng 10 Nga bùng nổ thì người Việt Nam mới biết tới đất nước Nga băng tuyết xa xôi, và từ đó, những mối liên hệ Việt - Nga mới bắt đầu được thiết lập. Niculin cho biết: Ở những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, tại Lixbon (Bồ Đào Nha) có một linh mục người Việt tên là Philipphê Bỉnh đã theo dõi và viết (bằng chữ quốc ngữ) về nước Nga với những tình cảm hữu ái chân thành. Philipphê Bỉnh đến Bồ Đào Nha năm 1796 và sống tại đó hơn 35 năm, do vậy mà ông có dịp trở thành người làm chứng cho những sự kiện làm khuynh đảo châu Âu của quân đội Napoleon. Sẵn có ác cảm với Hoàng đế nước Pháp (Napoleon từng bắt Giáo hoàng La Mã làm tù binh), Philipphê Bỉnh đã chào mừng chiến thắng của nước Nga trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812 trước quân viễn chinh Phalansa (Pháp). Ông tường thuật rất sinh động về chiến thắng và tất nhiên, không hề che giấu niềm thích thú: “Thượng vị Phalansa quyết thân chinh cùng đem những vua chúa vốn là những người thân thích của mình cùng quân đội các nước phương Tây sang, khi đến nơi thì thượng vị Russia (Nga) không đánh mà truyền cho quân mình rút lui; vua Phalansa chiếm được Kẻ chợ (tức Matxcơva) cùng nhiều tỉnh khác mà nghĩ rằng chúng đã đến được thành phố này thì phải chiếm được thành phố khác, đến được tỉnh này thì cũng phải chiếm được tỉnh khác. Russia giả vờ sợ vì chẳng muốn đánh trả vào những ngày hè, có ý đợi mùa đông vì bên ấy rét lắm người phương Tây chịu chẳng được. Điều ấy chẳng sai vì đến ngày mùa đông mà Russia ra mặt đánh, thì muốn chém ai thì chém, hay là muốn bắt sống ai thì bắt vì quân phương Tây cóng tay chẳng cầm gươm được, liền bại trận mà mất hết quân cũng như tướng” (Mối cảm tình của một người Việt Nam ở thế kỷ XVIII đối với nước Nga. Sdd, tr 504). Còn đây là một ví dụ khác mà Niculin cho biết về mối quan hệ sớm, ở chiều ngược lại, chiều Nga - Việt: cuộc gặp gỡ giữa nữ văn sĩ Nga Tachiana Lvovna Sepkina Kubernik và vua Hàm Nghi trên đất Algieri, năm 1902. Nhà văn nữ người Nga đi du lịch ở Bắc Phi, tại Algieri bà có dịp tiếp xúc, trò chuyện (bằng tiếng Pháp) với ông hoàng Việt Nam bị phế truất và đang phải chịu sống kiếp lưu đày. Thán phục và cảm thông sâu sắc trước con người của nhà vua, nữ văn sĩ Nga đã viết về ông đầy trân trọng trong bài bút ký có tựa đề Hoàng tử Lí Tông (in năm 1903, trong tập Những bức thư từ phương xa). Bà nhận ra ở ông “tiềm ẩn một tâm hồn nghệ sĩ lớn”, một khát vọng tự do, độc lập, cũng như lòng căm thù những kẻ thực dân. Hơn thế, Hàm Nghi không chỉ biết về nước Nga, nghĩ về nó, mà ông còn ước mơ đến đó. Ta có thể đọc thấy một đoạn trích từ bài bút ký của bà: “Sau đó chàng nói - Tôi ao ước được thấy tuyết trắng và thảo nguyên của quê hương chị... - Thì chàng hãy đến với chúng tôi! Tôi buột miệng chẳng kịp nghĩ ngợi gì. Hoàng tử buồn bã cúi đầu. Khi chàng ngẩng đầu lên, đôi mắt chàng đẫm lệ. - Tôi là con chim đã bị buộc cánh rồi, - chàng nói nhỏ và mỉm cười như thường lệ, cái cười khiến tim ta đau nhói” (Vua Hàm Nghi và nữ văn sĩ Nga. Sách đd, tr 480).

Xét ở một phương diện nhất định, những phát hiện về tư liệu - như đã nêu bằng hai ví dụ trên - quả không mấy... to tát gì trong sự nghiệp của một nhà nghiên cứu tầm cỡ như Giáo sư Viện sĩ Nicolai Ivanovist Niculin. Nhưng cũng dễ thấy, nếu không phải là người quan tâm sâu sắc đến Việt Nam và những mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài, chắc chắn Niculin sẽ không bao giờ tìm ra những tư liệu đã bị thời gian phủ bụi ấy (và nhiều tư liệu thú vị khác nữa). Cái nhỏ vốn đã nằm sẵn trong lòng một mục đích, một hướng đi lớn. Và chính đó là những cái nhỏ góp phần giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn về một nhà văn hóa xuất sắc, người đã có công không hề nhỏ trong việc tạo một nhịp cầu cho mối quan hệ văn hóa Việt - Nga.

Hoài Nam


Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ: HOẠT ĐỘNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH THÔNG TIN Y TẾ 63 TỈNH, THÀNH