Một nhà Hà Nội học chân chính

01-08-2010 9:12 AM | Văn hóa – Giải trí

Trong số những nhà nghiên cứu kỹ về Hà Nội, không hề tự xưng là Hà Nội học, có hai vị thật đáng mến phục vì những công trình tận tụy và uyên bác còn ít được biết đến: Nguyễn Văn Uẩn

Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, bỗng nhiên xuất hiện nhiều nhà Hà Nội học, vàng thau lẫn lộn.

Trong số những nhà nghiên cứu kỹ về Hà Nội, không hề tự xưng là Hà Nội học, có hai vị thật đáng mến phục vì những công trình tận tụy  và uyên bác còn ít được biết đến: Nguyễn Văn Uẩn với bộ Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX và Tảo Trang Vũ Tuấn Sán với tác phẩm Hà Nội xưa và nay mà tôi đề cập đến trong bài này. Hà Nội xưa và nay nghìn trang khổ to, nặng gần hai ký (NXB Hội nhà văn) được dư luận chú ý không phải vì sách to, dầy và nặng. Do có quan hệ với mấy nhà xuất bản lớn, tôi được biết là nhân dịp kỷ niệm Thăng Long, có đến hàng nghìn sách được in ra, không hiếm những cuốn dầy như vậy và đẹp nữa. Nhưng điểm qua tên các tác giả và tên sách thì thấy sách tái bản và sách “xào xáo” quá nhiều.

Trường hợp Hà Nội xưa và nay của Tảo Trang khác hẳn: Đây là thành quả nghiên cứu về Hà Nội trong nửa thế kỷ, tập hợp gần một trăm bài đã đăng tải trên các báo và tạp chí nghiên cứu trong mấy chục năm. Những bài này xoay quanh mấy chủ đề về Hà Nội: sử địa, di tích, danh nhân, văn nghệ dân gian, nghề truyền thống... mỗi bài là một công trình công phu. Tảo Trang có lợi thế hơn các nhà nghiên cứu Hà Nội xưa thường chỉ biết Hán Nôm, hơn các nhà nghiên cứu Hà Nội thế hệ mới thường chỉ biết tiếng Pháp, có khi không thạo, cho nên chỉ sử dụng tư liệu dịch nhiều khi sai. Tảo Trang thông thạo cả Hán Nôm và Pháp, đọc được tiếng Anh, nên sử dụng thư tịch các ngữ ấy rất chính xác. Ông lại hơn nhiều nhà “nghiên cứu bàn giấy”, vì chỉ với chiếc xe đạp cà tàng, ông đi khắp các làng xã, phát hiện và khai thác nguồn tư liệu địa phương và kiểm tra xem các điều đã được công bố đúng sai ở chỗ nào. Ông thu thập các văn bia, câu đối, gia phả, địa bạ của đình chùa và gia đình, phong tục tập quán, tư liệu truyền khẩu. Tuổi già sức yếu, Tảo Trang vẫn đạp xe đi địa phương vì quá say mê nghiên cứu Hà Nội.

 Tập sách Hà Nội xưa và nay.

Anh Phan Huy Lê đánh giá Tảo Trang về mặt sử học: “Mỗi bài viết của ông đều có những tìm tòi, khám phá về Hà Nội xưa. Ông đã dày công nghiên cứu về việc định đô Thăng Long của vua Lý Thái Tổ, về thành Thăng Long Hà nội  cùng một loạt địa danh lịch sử như núi Nùng, núi Khán, núi Sưa, Bến Đông, Thập tam trại và các di tích như miếu Đồng Cổ, chùa Hàm Long, đền Ngọc Sơn, miếu Trung Hiền.  Ông còn nghiên cứu về các sự kiện nhân vật lịch sử như cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đại phá quân Thanh, Pham Tu, Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Nguyễn Quý Đức, Bùi Huy Bích, Phạm Đình Hổ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trọng Hợp, Bùi Liêm...”. Ông thích thú sưu tập văn học dân gian, dịch thơ và câu đối Hán, thơ văn Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Ngô gia văn phái”.

Xin đơn cử một thí dụ khám phá của Tảo Trang, nhỏ mà có ý nghĩa lớn: thư của Nguyễn Ái Quốc trước Cách mạng tháng Tám gửi cho phụ lão toàn quốc (1941). Văn bản này bằng chữ Hán kêu gọi các cụ tham gia Việt Minh đánh Pháp Nhật, truyền miệng đến các tỉnh đồng bằng miền Bắc năm 1944. Tảo Trang đi điền dã ở Gia Lâm năm 1963 đã được một cụ học thuộc lòng đọc cho. Ông đã ghi chữ Hán và dịch ra quốc ngữ. Tài liệu này chứng tỏ sự nhạy bén chính trị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh: động viên tầng lớp cao tuổi tham gia cách mạng, vì các cụ (biết chữ nho) rất có uy tín: “Nước nhà chìm đắm, đồng bào lầm than, nhìn bốn phương mờ mịt, tay đặt lên tim tự hỏi: Phụ lão có tâm hồn không? Có nhiệt tình yêu nước không?...”.

Nói đến Tảo Trang Vũ Tuấn Sán, giới thức giả văn hoá đánh giá cao, công chúng ít biết vì ông làm việc âm thầm. Năm nay ông đã 95 tuổi, thuộc thế hệ trí thức thường thiên hẳn về Tây học, thờ ơ với Hán Nôm, riêng ông là trường hợp khá đặc biệt. Ông sinh ở làng Đại Từ (cách trung tâm Hà Nội 7 km) trong một gia đình có truyền thống Nho giáo. Tốt nghiệp cử nhân luật, vào đời đi dạy một số trường  tư thục  ở Vinh, Huế, Hà Nội.  Tôi quen ông lần đầu tiên ở Vinh, chúng tôi cùng dạy trường Lễ Văn do Tiên Viên Nguyễn Đức Bính làm hiệu trưởng. Chắc chắn lý do khiến ông vào Nghệ An là để tìm hiểu mảnh đất giau quốc học. Chúng tôi có dịp đi với nhau, thăm những di tích cổ. Ở trường nào, ông Sán cũng dạy môn Việt văn. Đó là một điều hiếm thấy, vì với tấm bằng cử nhân Tây, ông thừa sức dạy tiếng Tây. Ở các lớp cao đẳng tiểu học trở lên, thày giáo chính (professeur principal) là thày dạy tiếng Pháp. Việt văn chỉ dạy ít giờ, coi là môn phụ. Thi tú tài Tây, tiếng Việt bị coi là ngoại ngữ, như tiếng Anh. Trong không khí sùng Tây như vậy, ông Sán vẫn chấp nhận thiệt thòi về uy tín và tiền nong, dạy Việt văn để có thì giờ chuyên về quốc học.

Sau Cách mạng Tháng Tám, vì hoàn cảnh, ông Sán phải rơi kháng chiến về Hà Nội. Thủ đô giải phóng, ông là một cán sự “loàng xoàng” của Sở Văn Hoá Hà Nội. Cho đến khi về hưu, đây lại là dịp may để mấy chục năm còn lại ông say mê cống hiến cho Hà Nội học.

Đến xế chiều, nhìn lại con đường đã đi, ông Sán có niềm vui trọn vẹn với mối tình quốc học. Ông đã có những đóng góp quý mặc dù do những thành kiến ấu trĩ, ông không được đặt vào hoàn cảnh thuận lợi để phát huy hết khả năng của mình.       

Hữu Ngọc


Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ: HOẠT ĐỘNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH THÔNG TIN Y TẾ 63 TỈNH, THÀNH