Một ngày Hà Nội - một ngày Thơ

09-10-2008 16:15 | Văn hóa – Giải trí
google news

Gió heo may đã se se lạnh, từng đám mây mang hơi nước ngổn ngang đầy trời, mây như muốn sà xuống những ngọn cây cơm nguội đường Lý Thường Kiệt, còn hàng cây sấu đường Trần Hưng Đạo thì rắc lá đầy mặt phố.

Gió heo may đã se se lạnh, từng đám mây mang hơi nước ngổn ngang đầy trời, mây như muốn sà xuống những ngọn cây cơm nguội đường Lý Thường Kiệt, còn hàng cây sấu đường Trần Hưng Đạo thì rắc lá đầy mặt phố. Lá đuổi theo nhau, ruổi theo bước chân mấy em nhỏ chạy tung tăng, chắc là vừa tan buổi học.

Mấy câu thơ của Nguyễn Đình Thi sao lại phù hợp với cảnh sắc khu vực này đến thế, cứ ngỡ như khi viết những dòng này, trong tưởng tượng của ông có một thềm nắng của đại lộ Trần Hưng Đạo, mặc dầu sau đó nhiều năm, ông mới là người chủ chốt của số nhà 51 (trụ sở Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật V.N): Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác heo may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

 Sắc phố - Tranh của Quang Dực.
Những câu thơ vừa miêu tả được cái thần của thiên nhiên Hà Nội vừa nói đến ý chí quyết liệt của người Hà Nội sẵn sàng rũ áo ra đi vì nghĩa lớn.

Sau cuộc tạm biệt lâu dài với Hà Nội năm 1947, khoảng 20 năm sau lại có một cuộc "ra đi" không ngắn của người dân Hà Nội, cuộc sơ tán đối phó với không lực Mỹ. Lần này, một trong những tiếng thơ cất lên mở đầu là nhà thơ trẻ Bằng Việt, người đã đem lại cho nền thơ Việt nói chung và Hà Nội nói riêng chất trữ tình trí tuệ rất hợp với thế hệ trí thức trẻ Hà Nội lúc bấy giờ. Nếu như Hữu Loan mang đến cho thơ đầu kháng chiến chống Pháp chất ngang tàng hảo hán, trước đó không có trong thơ Việt: Người đập vỏ chai, vểnh cầm cạo râu, suối mang bóng người, trôi mãi về đâu (Đèo Cả) thì Bằng Việt thể hiện được sự ung dung điềm tĩnh của người Hà Nội thanh lịch. Những bài thơ hầu như chiếm trọn giới độc giả là sinh viên và trí thức Hà Nội bằng sự nghĩ ngợi nhuần nhụy, sáng lên sức trẻ: Vườn vàng phơi lá thu/ Ánh sáng mênh mông đối mặt quân thù/ Ánh sáng tinh khôi như trong mắt trẻ/ Soi hạnh phúc tự hào đơn giản thế!/ Ngày xưa anh chưa nghĩ ra/ Sông Hồng nước lên em đưa anh qua/ Tháng tám cầu nhô hai nhịp gẫy/ Sông Hồng nước lui khi anh trở lại/ Ta nắm tay nhau trên nhịp đã liền/ Hai bên bờ Long Biên/ Nghìn lá sắc trổ cờ trên ngọn mía/ Hạnh phúc lớn tự hào đơn giản thế/ Ngày xưa anh chưa nghĩ ra.

Rồi... không thể không nhắc đến Lưu Quang Vũ, người đứng chung tập thơ đầu nổi tiếng với Bằng Việt: Hương cây - Bếp lửa. Lưu Quang Vũ tài hoa và tinh tế, tươi mát trên từng câu chữ:…………

Nơi ban mai còn ướt sương rơi/ Một hạt nhỏ mơ hồ trên lá/ Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá?/ Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao. Lớp nhà thơ mở đầu công cuộc chống Mỹ ở Hà Nội lúc đó còn có Vũ Quần Phương, Tô Hà, Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh... Tùy từng thể tạng thi sĩ mà mỗi nhà thơ xuất lộ ít hay nhiều chất tinh tế tài hoa của người Hà Nội trong thơ.

Viết về phố cổ, khó có ai viết chữ nghĩa chắt lọc hơn Vũ Quần Phương. Ở bài Đi trong phố cổ Hà Nội, có thể nói hồn nhà thơ đã nhập vào hồn phố cổ trên từng lớp ngói âm dương: Chân đi trong phố, hồn trên mái xưa/ Mái rêu âm dương nắng chiều ngả bóng/ Mùi thơm hoa mộc hay hoa móng rồng/ Mùi thơm bâng khuâng thơm vào trí nhớ/ Hàng Đường Hàng Ngang cái thời voi ngựa/ Xa đã rất xa, gần lại rất gần/ Chân đi trong phố hồn trên mái xưa...

Hà Nội là nơi hội tụ với mật độ cao danh sĩ bốn phương, nhất là giai đoạn tiếp nhận cán bộ miền Nam tập kết, tôi nhớ chỉ một con phố nhỏ hai ba trăm mét như phố Dã Tượng (trước Tòa án nhân dân) đã có thời cư ngụ nhà văn Nguyễn Thành Long, một nhà văn khu năm tập kết và nhà thơ Bằng Việt. Báo Độc lập kề cận ngay ở góc phố, nên nhà thơ Ngô Quân Miện, Tổng biên tập báo luôn gặp gỡ Nguyễn Thành Long thành đôi bạn tâm giao. Vậy là chỉ trong phạm vi nửa cây số vuông đã có đến ba danh sĩ có hạng của Hà Nội. Cứ rảnh việc lúc nào là hai ông tìm đến nhau và lững thững đi bộ trở đi trở lại trên hè phố vắng Dã Tượng. Ngô Quân Miện đã có bài thơ Qua đường Dã Tượng viết tặng Nguyễn Thành Long, khi bạn ra đi:

Con đường vắng bạn và tôi lặng lẽ/ Một trang văn trằn trọc mấy trang đời/ Những mất ngủ chồng lên mất ngủ/ Những ngỡ ngàng, ảo vọng xa xôi/ Giữa trong xanh, thanh thản mây trời/ Bạn đã về nơi yên tĩnh ấy/ Tôi lắng đắng mãi rồi chưa viết nổi/ Một câu thơ chợp mắt của đời tôi. (Giữa trong xanh là tên tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thành Long)

Phố Bà Triệu dài hơn thì cuối phố có nhà thơ Quang Dũng, giữa phố có ngách rẽ Hàm Long là nhà Trần Lê Văn, nhích lên phía Bờ Hồ lại là nhà Ngô Quân Miện, ba ông là những người bạn chí cốt cả trong thơ lẫn trong đời sống. Nhà thơ Quang Dũng nổi tiếng như vậy mà cả đời chỉ có một tập thơ in riêng, có cái tên vừa rất Hà Nội, vừa rất Quang Dũng ở cái ý phiêu bồng của nó: Mây đầu ô. Quang Dũng cũng hay lang thang như mây vậy: Mây ở đầu ô mây lang thang/ Ôi chật làm sao/ Góc phố phường. Quang Dũng thích rong chơi như thế, nhưng ông lại là người đã thổi ngọn lửa oai hùng vào thơ viết về Hà Nội: Thôi nhé miền xuôi thôi tạm biệt/ Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời/ Ta đi Ngõ Gạch tường đang đục/ Gạn từng giọt nước đánh cầm hơi/ Ta đi tháp đứng nghiêm hồ lạnh/ Hoàn Kiếm đêm đêm giặc rụng rời/ Màu đỏ sao bay về đỉnh tháp/ Chiến hào xuân đến tiếng ca vui/ Thôi nhé miền xuôi thôi tạm biệt/ Cống Chéo Đồng Xuân thề một chết/ Hàng Gai tay bỏng trục ba càng/ Đất cũ Thăng Long người lẫm liệt/ (Những làng đi qua -1947).

Là người Hà Nội đi kháng chiến về, có lẽ không mấy ai không biết đọan thơ gây ấn tượng của Hoài Anh: Một người bạn tôi gặp trong đêm ấy/ Ra phố mua một bao thuốc lá/ Chín năm sau mới trở về nhà/ Ta mang ba mươi sáu phố phường đi kháng chiến/ Chín năm rừng lòng vẫn thủ đô. Sự rời nhà đi kháng chiến của người Hà Nội được miêu tả độc đáo và lãng mạn đến thế! Những cuộc ra đi ngày xưa thường là bịn rịn "đìu hiu Dịch Thủy...", "tráng sĩ một đi không bao giờ về" đầy vẻ bi tráng! Còn người Hà Nội thời hiện đại hoàn tất cả một sứ mệnh lịch sử mà vẫn hào hoa, tự nhiên như ra phố mua một bao thuốc lá. Cả cách nói giản lược "mang phố phường đi kháng chiến", hoặc "chín năm rừng lòng vẫn thủ đô", đặt danh từ vào chỗ đứng của tính từ lúc ấy là mới lắm!

Sau nhiều lần chuyển cư loanh quanh Hà Nội, tôi được về định cư trên đất Thập tam trại của Hà Nội cổ. Cho nên những đêm thu yên tĩnh, tưởng như có thể nghe được tiếng Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng - Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co của danh sĩ Nguyễn Huy Lượng mượn cảnh hồ Tây để ca ngợi công đức triều Tây Sơn trong bài Tụng Tây Hồ phú. Ban ngày thì chỉ mươi phút xe máy tà tà, là đã có thể mường tượng ra Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo - Nền cũ lâu đài bóng tịch dương của bà Huyện Thanh Quan...

Thì ra... những câu thơ hay về Hà Nội của thế hệ sau vẫn thuộc dòng chảy của thơ Thăng Long - Đông Đô truyền thống, bởi Hà Nội là cái nôi của nền văn hóa Sông Hồng, nền văn hóa Đại Việt. Bắt nguồn từ cái vị trí trung tâm ấy mà ngôn ngữ thơ Hà Nội cứ phong phú, tinh tế dần lên theo sự tiếp biến văn hóa từ chữ Hán, chữ Nôm đến chữ quốc ngữ, để hình hành một nền thơ có chiều sâu triết học, có lòng tự tôn dân tộc và cảm xúc nhân văn...

Vân Long


Ý kiến của bạn