Nhiều cây cảnh cho hoa đẹp được trồng nhiều ở nơi công cộng: vườn hoa, công viên; ở cổng nhà, vườn nhà, các chậu cảnh đặt trên bàn nước, bên cạnh cửa sổ... Kỳ nghỉ hè đã đến, trẻ em có dịp vui chơi ở nơi công cộng hoặc ở nhà nhiều hơn. Sự quyến rũ về vẻ đẹp bên ngoài của hình dáng cây, sắc màu của các bông hoa khiến ta quên đi hoặc không biết đến tính độc của chúng đang rình rập mỗi khi có sơ hở, nhất là các trẻ nhỏ dễ dàng tiếp xúc với các loại cây, hoa cảnh có độc tính đó.
Dây càng cua còn gọi là dây sữa (Cryptolepis buchanani Roem. Et Schult.), họ Thiên lý (Asclepiaceae). Khi ngắt lá hoặc dây của nó sẽ cho một thứ nhựa mủ màu trắng như sữa. Là loại dây leo bằng tua quấn. Cành già màu vàng xám hoặc nâu đỏ, có những nốt lồi. Lá mọc đối, gân sít nhau, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới nhạt. Hoa dạng xim hai ngả, mọc ở nách lá, cánh hoa màu vàng đậm hợp thành ống ngắn. Quả gồm 2 đại xếp đối nhau theo đường thẳng. Dây càng cua thường được trồng cổng nhà, leo lên các bờ tường, hoa màu vàng sặc sỡ rất đẹp. Lá, thân cây đều cho thứ nhựa mủ có độc tính. Tuy vậy, nó cũng có tác dụng tán ứ, giảm đau, sát trùng, rút mủ bằng cách dùng dây, lá tươi, giã nát, đắp bó vào nơi bị sưng đau hoặc mụn nhọt sưng tấy.
Cây thông thiên.
Càng cua còn gọi là xương rồng càng cua [Zygocactus truncatus (Haw. K.Schum.], họ Xương rồng (Cactaceae). Cây có nguồn gốc ở Brazil, hiện phổ biến hầu như cả nước. Thân càng cua phân nhánh, chia đốt; các đốt phía dưới tròn, phía trên dẹt, hình trứng ngược hoặc hình chữ nhật, màu xanh bóng, mép có răng cưa. Hoa dài 7cm, không đều; phiến hoa có dạng như hai môi, nhị trắng, bao phấn vàng, vòi nhụy màu đỏ son. Từ cành ra 2 bông hoa màu đỏ trông giống càng con cua. Quả dạng lê, màu đỏ. Thân càng cua có độc tính, cần lưu ý. Tuy nhiên, thân cây vẫn được dùng ngoài bằng cách rửa sạch, thái nhỏ, thêm chút muối ăn, giã nát, đắp bó vào nơi bị sưng đau như quai bị, mụn nhọt độc.
Cây trúc đào (Nerium indicum Miller), họ Trúc đào (Apocynaceae). Là loại cây bụi, cao đến 5-6m. Cành mảnh, có 3 cạnh, màu xám tro. Lá mọc vòng 3, hình lá hẹp, dài 7-10cm, gốc thuôn, đầu nhọn; mặt trên xanh bóng, mặt dưới nhạt. Gân lá bên rất nhiều xếp song song, đối xứng nhau. Cụm hoa mọc thành xim ở ngọn, màu hồng, trắng, hay vàng. Quả có 2 đại, mọc đứng. Trúc đào có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải, di thực vào nước ta, được trồng làm cảnh hầu khắp cả nước, nhất là trong vườn hoa, công viên, đình chùa, miếu mạo, giữa 2 làn đường trên các tuyến cao tốc. Lá trúc đào rất đắng, lá và hoa có hình dáng và màu sắc đẹp, rất hấp dẫn, nhất là trẻ em. Cành, lá, hoa của trúc đào rất độc, đặc biệt tránh không để cho các cháu tiếp xúc. Từ lá có thể chiết tách được rất nhiều các glycosid khác nhau, trong đó có chất oleandrin - một chất dễ hấp thu bằng đường uống, tác dụng điều trị bệnh suy tim, lợi niệu. Hiện nay, trong dân gian không có sử dụng cây này để chữa bất cứ loại bệnh gì.
Cây thông thiên [Thevetia peruviana(Pers.) K. Schum.], họ Trúc đào (Apocynaceae). Thông thiên là loại cây nhỏ, cao độ 3-4m. Thân nhẵn, cành non màu lục xám, có nhiều sẹo do lá rụng để lại. Lá mọc so le, hình mác hẹp, dài 8-15cm, rộng 4-7mm, đầu lá nhọn, gốc lá thuôn, hai mặt nhẵn, có gân giữa nổi rõ. Cụm hoa hình xim ngắn, mọc ở gần ngọn. Hoa 5 cánh hợp lại ở phần dưới thành ống ngắn, màu vàng tươi. Mùa hoa từ tháng 5-6. Quả hạch, dài 3-5cm, chia thành 4 múi, trong chứa hạt có vỏ cứng gần giống hình quả ấu. Trong hạt chứa một nhân. Thông thiên có nguồn gốc vùng nhiệt đới châu Mỹ, được di thực vào nước ta. Hiện được trồng làm cảnh ở các công viên hoặc đình chùa, hình dáng của cây và quả cũng như màu sắc của hoa thông thiên rất đẹp. Trong cành, lá, quả thông thiên chứa nhiều nhựa mủ trắng rất đắng, rất độc. Cần hết sức lưu ý. Tuy nhiên, từ lá và nhân hạt chiết tách được nhiều glycosid có vị rất đắng, trong đó có thevetin tác dụng cường tim. Từ các bộ phận của thông thiên chưa thấy có một công dụng nào được dùng trong dân gian.