Minh triết làm chủ biển Đông

10-02-2016 07:51 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Không phải đợi đến thời nay, minh triết làm chủ biển Đông đã được nhà thơ - nhà tiên tri nổi tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc đúc kết lại trong hai câu: Vạn lí Đông minh quy bả ác/ Ức niên Nam cực điện long bình (Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình).

Nghĩ rằng, như thế đã quá đủ, quá rõ về một chiến lược biển lâu dài cho đất nước ta, không dài dòng văn tự mà bao quát hết nhiệm vụ giữ nước của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Giữ nước làng là phải giữ biển đảo; hai trong một, một mà hai, mãi mãi như thế, muôn đời như thế.

Biển đảo của Việt Nam, vùng lãnh thổ thiêng liêng in dấu khai mở, trấn giữ nhọc nhằn hằng mấy nghìn năm đằng đẵng của tổ tiên, ông cha ta. Đó là vùng mây nước đảo nổi, đảo chìm thân yêu của Tổ quốc với tổng diện tích xấp xỉ một triệu cây số vuông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang hiển hiện từng ngày, từng giờ giữa lòng dân tộc, trong mỗi trái tim người Việt. Biển đảo Tổ quốc đang trở thành nhịp đập, hơi thở của cuộc sống hôm nay; nó là tình yêu chung vừa rộng lớn vừa sâu thẳm của chúng ta, gắn chặt với dải đất cong cong hình chữ S chạy dài từ Trà Cổ đến Mũi Cà Mau như những cứ liệu lịch sử rất đáng tin cậy đã minh chứng, như muôn vàn dấu tích vật thể hay phi vật thể về quá khứ còn tồn tại đó đây mang tính thuyết phục rất cao. Chứng cứ, tư liệu lịch sử về biển đảo nói chung, về Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng của Việt Nam là cái có thể thấy, nghe và chạm tay vào được. Các cuộc triển lãm, hội thảo về biển Đông, về Hoàng Sa, Trường Sa trong thời gian qua thu hút rất nhiều người trong và ngoài nước tham dự, góp phần minh chứng sự đúng đắn trong các lập luận về chủ quyền của Việt Nam. Chính vì thế mà khi quốc gia láng giềng khổng lồ phương Bắc có những hành vi chiếm đoạt, xâm lấn biển đảo Việt Nam đã phải chuốc lấy không ít lời chỉ trích, phê phán, lên án của thế giới trong đó có cả những học giả đầy uy tín ở nước họ.

Mỗi lần về thăm quê, một vùng đất sơn thủy hữu tình nằm ở cuối dòng sông Gianh của Quảng Bình, tôi lại nhớ tới và ao ước người ta dựng lên nơi cửa biển ngày đêm ầm ào sóng gió một tấm bia bằng đá khắc tạc bài thơ của vua Lê Thánh Tông. Vị vua thứ tư của nhà Hậu Lê này, được coi là một trong những minh chủ của đất Việt, khi đi qua sông Gianh (tên cổ: Linh Giang - dịch nghĩa: Sông Thiêng) thời ấy vẫn được coi là miền biên thùy xa xôi hoang vắng đã cảm tác nên thi phẩm Linh Giang hải tấn (Cửa biển Linh Giang). Còn vọng vang trong tôi những câu thơ được dịch ra từ nguyên văn Hán ngữ của ông Nguyễn Đình Diệm: Núi bọc chung quanh biển mịt mờ/ Bố Chính ngày trước vẫn hoang sơ/ Ven sông làng xóm nhà tranh cỏ/ Khuất bến tre pheo dựng cột cờ/ Gái thắt lưng ong khoe yểu điệu/ Dân hòa giọng quých nói líu lo/ Trời Nam đã rưới ơn mưa móc/ Chẳng phải xa xôi bỏ cõi bờ.

Bài thơ như một bức ký họa đẹp về quê hương tôi ở thế kỷ 15, có sông núi biển và con người hòa quyện vào nhau, cuộc sống đơn sơ bình lặng nhưng hiền hòa khôn xiết. Con gái quê tôi đến bây giờ vẫn đáy thắt lưng ong và giọng nói dịu dàng ríu rít như chim hót. Tuy nhiên, cái khắc sâu vào lòng tôi nhất chính là lời chỉ huấn của bậc thánh nhân: Khẳng hạn phong cương ngoại đạo vi, nghĩa là: Không vì ngoài biên cương hiểm trở mà bỏ dân nơi đảo xa này. Ý thức về chủ quyền lãnh thổ rất khúc triết minh bạch, chăm sóc dân chúng nơi cõi bờ xa xôi chính là để gìn giữ non sông xã tắc thiêng liêng bền vững.

Tầm nhìn xa rộng của các bậc vĩ nhân lẽ dĩ nhiên trở thành bài học giữ nước không chỉ của một người, một thời, một triều đại mà của muôn người, muôn đời. Tổ quốc ta là một dải đất liền cong cong nhìn ra biển cả, từ hàng triệu năm về trước sóng đại dương còn vỗ ì oạp dưới chân núi Ba Vì. Qua rất nhiều biến động của thiên nhiên, đại dương rút dần ra xa để lại những vùng đất ướt át, tạo nên dáng hình sông núi ruộng đồng biển cả hôm nay. Biển là một phần không thể thiếu, không bao giờ thiếu của đất nước mình. Thế mới có truyền thuyết năm mươi người con theo mẹ Âu Cơ lên rừng và năm mươi người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển. Lên rừng xuống bể mặc nhiên trở thành câu phổ quát quen thuộc về đất nước bao đời nay của nhân dân ta. Quá nhiều câu ca dao Việt Nam nói về rừng với biển tha thiết mặn cay như muối với gừng: Ai về nhắn với họ Nguồn/ Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên; Rừng xanh lẫn biển cũng xanh/ Để coi cây quế ngả cành về đâu... Xin thêm khúc ca dao gắn biển với rừng vào tình yêu đôi lứa mộc mạc mà sâu lắng muôn vàn này: Rủ nhau xuống biển mò cua/ Đem về nấu quả mơ chua trên rừng/ Em ơi chua ngọt đã từng/ Non xanh nước bạc, ta đừng quên nhau.

Thầy và trò trên đảo Trường Sa.

Văn hóa Việt cũng nhờ thế mà cắm rễ, mọc mầm, trổ cành, ra hoa, kết trái từ rừng xuống biển. Chiếc bánh chưng, bánh dày của Lang Liêu làm ra để dâng cúng trời tròn đất vuông và trái dưa hấu vỏ xanh lòng đỏ do Mai An Tiêm trồng được kết nối với nhau bằng tình huyết thống ruột rà. Trong huyền ảo cổ tích ta nhận ra những phôi liệu cuộc sống rất thật thấm đẫm tính cách, tâm hồn con người Việt. Và, khi những con thuyền Việt hạ thủy xuống biển bao giờ cũng chở theo những giá trị văn hóa truyền thống có gốc rễ làng xã ấy. Không quá khó để hình dung lại hành trình đi ra biển lớn của bao lớp người Việt, nếu thấy sóng cả mà ngã tay chèo chắc chắn Tổ quốc ta hôm nay chẳng có trăm nghìn hòn đảo như Bạch Long Vĩ, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Côn Đảo, Phú Quốc... và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Thiết nghĩ không cần nói thêm nữa tầm quan trọng của biển đảo đối với sự phát triển của nước ta trong hiện tại và tương lai. Chỉ nhắc lại điều này, biển đảo của chúng ta đang không toàn vẹn và bình yên bởi sự xâm lấn, xâm lược của những thế lực bành trướng. Có thể khẳng định rằng lấn chiếm biển đảo của láng giềng bằng mọi cách là chiến lược dài lâu của họ. Không còn con đường nào khác dân tộc ta phải trường kỳ giữ biển như tổ tiên, ông cha ta đã từng. Không có gì xa lạ cả, vẫn cứ phải tận dụng tối đa cái Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa như bao thế hệ đi trước đã làm. Chính nghĩa thuộc về ta, nhiều yếu tố lịch sử, pháp lý thuộc về ta, đó là Thiên thời. Sông núi của ta, biển đảo của ta, ta sẽ dựa vào đó để xây dựng và giữ gìn Tổ quốc đó là Địa lợi. Trước họa xâm lăng, lòng yêu nước của dân ta càng dâng cao, muôn người như một sẵn sàng xả thân vì đất nước và nền quốc phòng toàn dân chứa đựng sức mạnh to lớn chính là Nhân hòa.

Tuy nhiên, không thể giữ nước tốt khi nền kinh tế yếu ớt, tiềm lực quân sự mỏng mảnh, xã hội rối ren... Lòng yêu nước phải được đo bằng những hành động, việc làm cụ thể mà theo tôi dù tình hình biển Đông có dậy sóng đến cấp nào cũng phải kiên quyết chống tham nhũng vốn được coi như thù trong của chúng ta. Tham nhũng cùng những tệ nạn khác sẽ làm cho đất nước yếu đi và cái đáng sợ nhất là lòng dân không an. Quá nhiều thử thách vô cùng to lớn và nặng nề đặt ra trước Đảng và dân tộc,... Lịch sử dân tộc sẽ khắc ghi tên tuổi những người lãnh đạo hết lòng vì nước vì dân, tâm sáng tầm cao, đại diện xứng đáng cho bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Đấy cũng là niềm tin, lòng kính trọng và tự hào của nhân dân. Xưa nay đều thế cả, minh chủ là một yếu tố rất quan trọng trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hiểu một cách mềm mại thoáng rộng hơn, khái niệm minh chủ hôm nay vừa chỉ lãnh tụ của Đảng, của Nhà nước cũng vừa bao hàm Đảng ta, một tổ chức chính trị được Hiến pháp thừa nhận là lực lượng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện xã hội Việt Nam. Đảng phải thực sự trong sạch vững mạnh mới tập hợp, lãnh đạo được nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang có rất nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức.

Trường kỳ giữ biển sẽ là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của dân tộc ta hôm nay và mai sau. Mồ hôi và máu của dân tộc Việt Nam đã làm mặn thêm biển Đông rồi chắc chắn sẽ còn đổ thêm nữa. Với dân tộc Việt Nam vốn đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh yêu nước không có khát vọng nào cao hơn, quý hơn, đẹp hơn khát vọng hòa bình. Thấm thía điều ấy nên chúng ta đã nhẫn nhịn, bình tĩnh xử lý rất ôn hòa trên vùng biển Đông dậy sóng trong thời gian vừa qua. Nhưng, không phải vì thế mà chúng ta lui bước để kẻ xấu lấn lướt, chiếm đoạt lãnh thổ ông cha để lại. Nhu cương tùy lúc, tôi tin dân tộc mình sẽ đứng vững trong cuộc trường kỳ giữ biển. Gắn kết lòng dân để gìn giữ chủ quyền và phát triển kinh tế biển đảo; đó chính là nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Như ông cha thuở xưa, con cháu hôm nay cũng phải Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ để cho Đất Việt muôn năm vững trị bình!


Tùy bút của Nguyễn Hữu Quý
Ý kiến của bạn