TS. Nguyễn Đức Hải
Người bệnh mang máy tạo nhịp tim phải tuân thủ lịch khám kiểm tra định kỳ. |
Lịch sử của tạo nhịp tim
Năm 1889, Mc William (người Anh) đã sử dụng dòng xung điện kích thích lên tim người đã ngừng đập, kết quả làm cho tâm thất co bóp được theo tần số xung động khoảng từ 60-70 lần/phút.
Năm 1932, nhà sinh lý học người Mỹ Albert Hyman đã công bố phát minh về tạo nhịp của mình và đưa ra khái niệm "artificial pacemaker - tạo nhịp tim nhân tạo". Khái niệm này cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Năm 1952, Paul Zoll lần đầu tiên sử dụng thành công các xung điện thông qua hai điện cực gắn vào hai kim được cắm vào ngực cho hai bệnh nhân bị ngừng tim, làm cho tim đập lại theo nhịp của xung điện đó.
Năm 1956, Winson Greatbatch (Hoa Kỳ) đã thí nghiệm thành công cấy máy tạo nhịp vào trong cơ thể sống.
Năm 1958, Ake Sening (Thụy Điển) lần đầu tiên trên thế giới đã cấy máy tạo nhịp thành công trên cơ thể người.
Với những hiểu biết mới về điện sinh lý học, những tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật điện tử - y sinh, từ những thế hệ máy tạo nhịp ban đầu hết sức đơn giản và nặng nề (300-400g), sau hơn 50 năm phát triển, hiện nay người ta đã chế tạo ra nhiều thế hệ máy hiện đại, khối lượng rất nhỏ gọn (chỉ từ 20-30 g), nhưng chức năng lại rất đa dạng; máy tạo nhịp 3 buồng tim để trị suy tim; máy phá rung tự động cấy trong cơ thể (để đề phòng đột tử do rung thất) và tuổi thọ của máy tạo nhịp tim cũng kéo dài hơn (8 - 10 năm).
Tại Việt Nam, trường hợp cấy máy tạo nhịp đầu tiên được tiến hành năm 1973, tuy nhiên do điều kiện kinh tế, mãi đến những năm 1990 kỹ thuật cấy máy tạo nhịp mới phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, các trung tâm có khả năng cấy máy và lập trình cho máy tạo nhịp tim đã tăng lên đáng kể như Viện Tim mạch quốc gia Việt Nam, Bệnh viện TWQĐ 108 (miền Bắc), Bệnh viện TW Huế (miền Trung) Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện 115, Bệnh viện Thống Nhất, viện Quân y 175... (miền Nam) với số lượng bệnh nhân được cấy máy tăng lên từng năm.
Những trường hợp nào cần đặt máy tạo nhịp?
Chỉ định thông dụng nhất của máy tạo nhịp tim là đối với những bệnh nhân có nhịp quá chậm gây nên các triệu chứng như ngất xỉu, choáng váng... Nhịp chậm do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là do bị tắc nghẽn đường dẫn truyền nhĩ thất cấp 2 và 3; bệnh nhân bị suy yếu nút xoang; bệnh nhân có rung nhĩ với cơn nhịp nhanh, chậm xen kẽ (lúc đó nếu điều trị nhịp nhanh thì sẽ làm cho cơn nhịp chậm bị nặng lên - nguy hiểm đến tính mạng người bệnh). Ngoài ra còn nhiều chỉ định mở rộng khác như đã nói ở trên. Tuy nhiên, những chỉ định này cũng chỉ hạn chế trong những trường hợp cụ thể nhất định.
Máy tạo nhịp tim được lập chương trình như thế nào?
Nhờ một phương tiện được gọi là máy lập chương trình (programmer), có thể kiểm tra được tất cả các thông số hoạt động của máy tạo nhịp như ngưỡng kích thích, ngưỡng nhận cảm, điện trở của máy tạo nhịp, điện trở của điện cực, biên độ kích thích, độ rộng của xung kích thích, sự tiêu hao của pin... và lập chương trình hoạt động cho máy tạo nhịp sao cho hợp lý và tiết kiệm năng lượng. Máy lập chương trình thực chất là một máy tính có cài sẵn chương trình phần mềm riêng biệt được nối với một đầu lập chương trình và một máy in. Đầu lập chương trình có gắn nam châm và các mạch điện tử để liên lạc với máy tạo nhịp qua sóng điện từ hay từ trường. Khi kiểm tra máy tạo nhịp, các bác sĩ chỉ cần áp đầu nhận cảm của máy lập chương trình ở ngoài da, ngay trên máy tạo nhịp. Nhờ cơ chế hoạt động từ trường, máy sẽ nhận hoặc truyền các tín hiệu điều khiển máy tạo nhịp thông qua đầu nhận cảm này một cách dễ dàng.
Nguyên lý hoạt động
Nguyên lý hoạt động của máy rất phức tạp. Nhưng có thể hiểu một cách đơn giản là: tim co bóp được trước hết là nhờ trung tâm chủ nhịp phát ra những xung động điện học, các xung động điện học này thông qua hệ thống dẫn truyền được truyền đến tận tế bào cơ tim, kích thích làm cho cơ tim co bóp. Máy tạo nhịp có khả năng phát hiện các hoạt động tạo nhịp này của tim, do vậy, nếu hoạt động điện học này của tim không đảm bảo (ví dụ tạo ra nhịp quá chậm, làm cho tim không bơm đủ máu lên não, gây triệu chứng thiếu máu não), máy tạo nhịp sẽ bổ xung các xung động kích thích, đảm bảo cho tim co bóp được đúng tần số theo chương trình đã được lập từ trước. Trái lại, nếu tim hoạt động bình thường thì máy sẽ không phát ra xung động nào nữa, để cho tim tự duy trì hoạt động của mình.
Máy tạo nhịp được cấy vào cơ thể như thế nào?
Việc cấy máy tạo nhịp gồm có 2 phần. Đầu tiên là đặt điện cực vào buồng tim, các máy tạo nhịp có nhiều loại khác nhau; các máy có từ 1-4 điện cực đặt vào 1 đến 4 buồng tim khác nhau. Sau khi đã xác định được vị trí tốt của điện cực, nó sẽ được cố định vào thành tim. Bước tiếp theo là đặt máy tạo nhịp; vị trí đặt máy thông thường là ngay dưới và giữa xương đòn bên phải. Các bác sĩ sẽ tiến hành rạch da vừa đủ để đặt chiếc máy tạo nhịp vào đó; sau khi đặt máy tạo nhịp vào vị trí; các điện cực sẽ được đấu vào máy và ngay lúc đó máy tạo nhịp đã bắt đầu công việc của mình.
Những chú ý đặc biệt đối với bệnh nhân đặt máy tạo nhịp
- Theo dõi máy: trước khi xuất viện, bác sĩ sẽ kiểm tra lại máy tạo nhịp và có những điều chỉnh cần thiết cho phù hợp với từng bệnh nhân. Sau đó, nếu không có diễn biến bất thường, người bệnh sẽ được hẹn đến kiểm tra định kỳ sau 1 tháng, 3 tháng rồi 6 tháng 1 lần (tất nhiên người bệnh phải đến kiểm tra ngay nếu thấy có những dấu hiệu bất thường).
- Đi lại và hoạt động: sau khi xuất viện, người bệnh có thể sinh hoạt bình thường. Bệnh nhân được khám lại sau 1 tháng, nếu tình trạng sức khỏe tốt, có thể quay lại công việc bình thường, tuy nhiên phải tránh các công việc nặng nhọc và đòi hỏi hoạt động thể lực nhiều. Bệnh nhân cần quay trở lại công việc một cách từ từ dưới sự theo dõi và hướng dẫn cụ thể của bác sĩ. Nếu chơi thể thao, cần ngưng hẳn các môn thể thao thi đấu, chỉ nên chơi những môn thể thao nhẹ, có tính chất giải trí.
- Lái xe: nếu có đeo dây đai bảo hiểm, cần tránh để dây vắt ngang qua máy.
- Sử dụng điện thoại di động: nhiều nghiên cứu đã cho thấy những tác động tương hỗ giữa máy tạo nhịp với điện thoại di động. Do vậy, người mang máy tạo nhịp không bao giờ nên nghe điện thoại bằng tai ở cùng phía với máy tạo nhịp (thông thường là tai phải), có thể nghe ở phía tai đối diện, để cho khoảng cách từ điện thoại di động tới máy tạo nhịp càng xa càng tốt, thời gian sử dụng càng ngắn càng tốt, nhất là khi chính người bệnh cảm thấy có "vấn đề" khi sử dụng điện thoại di động.
Đặc biệt chú ý với những người mang máy tạo nhịp là: không được chụp hay lại gần máy cộng hưởng từ hạt nhân (vì nguy hiểm đến tính mạng); khi đi qua hàng rào an ninh có thiết bị từ tính phải khai báo máy tạo nhịp, nếu tự ý đi qua sẽ có thể có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của máy tạo nhịp.