Sơ lược về rối loạn cương (ED)
Tín hiệu điều khiển trạng thái cương truyền từ vùng hạ đồi đến dương vật. Thần kinh phó giao cảm (tiết ra acetylcholin) phối hợp với tế bào nội mô của xoang tĩnh mạch (tiết ra prostaglandin-F2a, endothelin) tạo ra phản ứng sinh oxit nitric (NO); sau đó NO lại tạo ra phản ứng sinh GMP (guanosin monophosphat - vòng nội bào) gây giãn cơ tiểu động mạch thể hang, làm cho máu tràn vào đó, đồng thời lại chẹn toàn bộ hệ thống tĩnh mạch nằm dưới bao trắng không cho máu thoát đi. Máu ứ lại ở dương vật gây trạng thái cương. Bất cứ nguyên nhân nào dẫn tới trục trặc các khâu nói trên đều gây ra trạng thái không cương cứng được, gọi là trạng thái rối loạn cương (ED), như:
- Rối loạn mạch máu: cholesterol cao, huyết áp cao, xơ vữa mạch, tổn thương mạch máu.
- Rối loạn hoóc-môn: giảm testosteron, tăng prolactin, suy tuyến giáp.
- Yếu tố tâm lý: không yêu, không hòa thuận, chán ghét giao tiếp thể xác (do cú sốc trong quá khứ như bị cưỡng dâm), do stress (do áp lực công việc đời sống).
- Toàn thân: tuổi cao, bị các bệnh suy thận mạn, đái tháo đường, tim mạch.
- Dùng thuốc: dùng lâu dài một số thuốc như thuốc chữa cao huyết áp, thuốc chữa trầm cảm, động kinh, thuốc kháng histamin.
Thuốc ức chế PDE-5 không phải là toàn năng
EnzymPDE-5 (phosphodiesterase-5) thủy phân GMP làm mất một mắt xích quan trọng cuối cùng trong trạng thái cương (gây giãn cơ tiểu động mạch thể hang, làm cho máu tràn vào đó). Ức chế PDE-5 làm cho enzym này không hoạt động, GMP sinh ra sẽ bền vững quá trình cương sẽ diễn ra thông suốt.
Thuộc nhóm ức chế PDE-5 gồm: Sildenafil (viagra), tanalafil (cinalis), vardenafil (levitra).
Nhóm thuốc này chỉ đáp ứng 70% các trường hợp, còn 30% không đáp ứng, sau 1 năm có thêm khoảng 30% bỏ thuốc không rõ lý do. Thất bại trong dùng thuốc ức chế PDE-5 thường do:
Dùng không đúng chỉ định: ức chế PDE-5 chỉ có hiệu lực theo cơ chế trên. Nếu dùng ức chế PDE-5 khi rối loạn cương do các nguyên nhân khác thì ức chế PDE-5 sẽ không cho hiệu quả: Ví dụ ức chế PDE-5 sẽ không có hiệu quả nếu rối loạn cương do rối loạn chức năng nội mô, do xơ vữa mạch, do nhược năng tuyến sinh dục, do các yếu tố tâm lý, do bị các bệnh mạn tính.
Dùng không đúng thời điểm: các thuốc trong nhóm có thời gian khởi đầu hiệu lực khác nhau (viagra 40 phút, cinalis 30 phút, levitra 15 phút), thời gian đạt nồng độ đỉnh cũng khác nhau (viagra 60 phút, cinalis 120 phút, levitra 40 phút). Dùng không đúng thời điểm thì thuốc sẽ không phát huy được tác dụng lúc giao hợp.
Dùng không đúng liều và thiếu kiên nhẫn: liều khởi đầu của viagra là 50mg của cinalis và levitra là 10mg, nếu dùng liều gấp đôi sẽ đạt hiệu quả tối ưu, không dùng liều tối ưu sẽ kém hiệu quả, đôi khi còn bị tác dụng phụ. Đa số sau 2 liều nhưng cũng có người phải dùng từ 6 - 8 liều mới thấy cho kết quả. Thiếu kiên nhẫn sẽ dẫn đến đánh giá không đúng và bỏ thuốc giữa chừng.
Không chú ý đúng mức tai biến: ức chế PDE-5 có thế gây một số tác dụng không mong muốn: như nhức đầu đỏ bừng mặt, rối loạn tiêu hóa, viêm mũi, đau lưng (chỉ ở cinalis). Người bình thường sau khi dùng, nhất là khi dùng liều cao, cũng có thể bị hạ huyết áp dẫn tới nhịp tim nhanh, rung nhĩ nhưng không nặng. Người có một số bệnh (cao huyết áp, tăng cholesterol, đái tháo đường, tim mạch), đặc biệt khi đang dùng thuốc chữa các bệnh này mà dùng ức chế PDE-5 thì tai biến xảy ra nặng hơn. Chẳng hạn khi đang dùng thuốc chống đau thắt ngực (thuốc này sinh NO là giãn mạch), thuốc chữa cao huyết áp (như propanolol)... mà lại dùng ức chế PDE-5 thì tính giãn mạch của ức chế PDE-5 sẽ cộng hợp cùng chiều với thuốc giãn mạch chữa các bệnh nói trên gây ra trụy mạch nặng sẽ dẫn tới tử vong. Những người bị các bệnh này đúng ra không được dùng ức chế PDE-5, song số ít người lại tự ý dùng để tăng phong độ đàn ông nên gặp tai biến.
Không coi nhẹ vai trò của các thuốc khác
Testosteron: khi nồng độ testosteron máu giảm xuống dưới ngưỡng 200ng/dL thì sẽ giảm ham muốn tình dục gây trạng thái giảm cương dương. Trong trường hợp này dùng ức chế PDE-5 sẽ không có hiệu quả (vì không đúng cơ chế bệnh sinh) nhưng nếu dùng testosteron uống sẽ đạt hiệu quả tới 52%, tiêm đạt hiệu quả 82% Trong một số trường hợp lúc đầu dùng ức chế PDE-5 không hiệu quả nhưng nếu phối hợp với testosteron thì sau đó ức chế PDE-5 sẽ cho hiệu quả khá hơn.
Aprostadil: prostaglandin E5 tổng hợp. Thông qua enzym aldehytcyclase, aprostadil làm tăng AMP vòng, giảm nồng độ canxi nội bào, dẫn tới giãn cơ trơn động mạch cơ trơn thể hang; AMP còn có thể phục hồi hoạt động của NO làm tăng GMP vòng, dẫn đến giãn cơ trơn tiểu động mạch thể hang… dồn máu lại tại đó, tạo ra thái cương.
Papaverin: ức chế PDE-5 không chọn lọc. Hiệu lực kém aprostadil. Với tình rối loạn cương do tâm lý, papaverin cho hiệu quả tới 80% nhưng với rối loạn cương do mạch máu thì papaverin cho hiệu quả rất thấp.
Apomorphin: chất đồng vận với dopamin. Dùng đặt dưới lưỡi có hiệu quả kém ức chế PDE-5 nhưng nhanh, ít tác dụng phụ. Dùng phối hợp với ức chế PDE-5 sẽ cho kết quả tốt hơn dùng từng thứ riêng lẻ.
Melanotan: peptid hướng melanin tiêm dưới da cho người rối loạn cương do nguyên nhân thực thể đạt hiệu quả 63%.
Ba thuốc papaverin, apomorphin, melanotan mới chỉ dùng thử nghiệm tại các bệnh viện. Chúng còn có các tác dụng dược lý và tác dụng không mong muốn khác mà phạm vi bài này không đề cập đến.
Không được dùng các thuốc chữa rối loạn sinh dục sai mục đích
Một ít người khỏe mạnh, không bị rối loạn tình dục… nhưng lại dùng loại thuốc này bằng cách tăng liều, tăng tần số và kéo dài thời gian dùng với hy vọng tạo ra sự hoan lạc trong ăn chơi. Ức chế PDE-5 ưu tiên làm giãn mạch thể hang mà ít gây ra giãn mạch các nơi khác. Khi dùng liều cao, tăng tần số và kéo dài thời gian dùng thì ức chế PDE-5 sẽ gây giãn mạch nhiều nơi khác, làm trụy mạch, có thể dẫn tới tử vong. Khi mới đưa viagra vào thị trường, người ta đã tổng kết có khoảng 600 trường hợp tử vong vì lý do này.
Khi testosteron giảm xuống dưới ngưỡng thì hứng thú tình dục bị giảm sút. Lúc đó mới cần dùng testosteron để phục hồi lại hứng thú tình dục ở ngưỡng sinh lý như trước. Khi không bị giảm sút testosteron mà dùng tăng liều, tăng tần số và thời gian dùng sẽ không đạt mục đích tạo ra sự hoan lạc mà sẽ làm rối loạn hoóc-môn, có hại.
Nếu người già yếu, người có bệnh huyết áp, tim mạch, đái tháo đường… dùng với mục đích và cách dùng sai như nói trên thì tai biến càng dễ dàng xảy ra và nặng nề hơn.
Hiện nam giới có khoảng 40% ở tuổi 40 và 60% ở tuối 60 bị rối loạn sinh dục nam ở mức độ khác nhau cần được chữa. Nếu vì tự ty, mặc cảm hay sợ thuốc gây độc mà không chữa là sai. Nhưng khi nghi bị bệnh cần khám tại các phòng khám nam khoa để được chỉ định hướng dẫn dùng thuốc đúng, không nên dùng tùy tiện, đặc biệt không nên dùng thuốc sai mục đích.