Báo cáo tổng quan về bình đẳng giới năm 2021 cho biết, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam vẫn ở mức rất cao, khoảng 111,5 bé trai trên 100 bé gái. Mất cân bằng giới tính khi sinh trước đây xảy ra chủ yếu ở thành thị, vùng đồng bằng Bắc Bộ thì nay lan rộng ra hầu khắp cả nước.
Trong những năm qua, tỷ số giới tính khi sinh đang có sự gia tăng. Đặc biệt, Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên, tức là các cặp vợ chồng đã nghĩ đến lựa chọn giới tính khi sinh ngay ở lần sinh đầu tiên.
Tình trạng mất cân bằng giới tính này đưa Việt Nam vào top các quốc gia có tỷ lệ mất cân bằng giới tính cao nhất. Tại châu Á, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt Nam đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Tại Quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 2/8/2021 về danh sách tỉnh, thành phố thuộc các vùng theo tỷ số giới tính khi sinh sử dụng để xây dựng đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2021-2025 của Bộ Y tế, có 21 tỉnh có tỷ lệ giới tính khi sinh trên 112 bé trai/100 bé gái; 18 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh từ 109-112 bé trai/100 bé gái và 24 tỉnh có tỷ lệ giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái. Trong đó, Sơn La có tỷ lệ giới tính khi sinh cao nhất là 118,2 bé trai/100 bé gái; tỉnh Hưng Yên 118,1 bé trai/100 bé gái; tỉnh Bắc Ninh 117,7 bé trai/100 bé gái, Hà Nội 113 bé trai/100 bé gái…
Chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh cao nhất ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Tỷ số giới tính khi sinh thấp hơn ở miền Nam, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng nông thôn, khu vực Tây Nguyên.
Sở dĩ có tình trạng lựa chọn giới tính trước khi sinh là do các yếu tố: Tâm lý ưa thích và phải có bằng được con trai đã ăn sâu vào văn hóa truyền thống của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Chỉ có con trai mới là người "nối dõi tông đường". Vì vậy, khi các cặp vợ chồng biết tin mang thai con gái, họ có xu hướng bỏ cái thai đó đi vì muốn có con trai hơn. Hiện nay, mặc dù luật pháp nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính khi sinh, nhưng trong thực tế, việc bảo đảm quy định này hiệu quả chưa cao.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là giảm sinh và hạn chế mức sinh. Ở Việt Nam, mỗi gia đình thường chỉ sinh hai con, ở một số đô thị lớn, nhiều phụ nữ ngại sinh con. Ví dụ như tại TP.HCM, tỷ suất sinh giảm xuống thấp, thậm chí 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không sinh đủ 2 con. Hay có những gia đình, nếu bé đầu là con gái và bé thứ hai – được coi là lần sinh cuối - cũng được xác định là con gái, thì cặp vợ chồng có thể nghĩ tới việc phá thai.
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm mất cân bằng giữa bé trai và bé gái là do sự hiện diện ngày càng phổ biến của công nghệ sinh sản ở Việt Nam. Dù ở thành thị hay nông thôn, các cặp vợ chồng đều có thể dễ dàng tiếp cận công nghệ khoa học hiện đại để dự đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.
Hệ lụy nhãn tiền của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam
Tại Hội thảo tham vấn Nam - Nam về chấm dứt tâm lý ưa thích con trai, hạ thấp giá trị con gái, và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới mới đây, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho rằng, sự chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam có xu hướng giảm, song vẫn còn ở mức cao.
"Sự mất cân bằng giới tính khi sinh nếu không có sự can thiệp tích cực ngay từ bây giờ sẽ để lại những hệ lụy khôn lường cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc và cũng tác động nghiêm trọng đến bất bình đẳng giới, đến sự tiến bộ và vị thế của người phụ nữ trong xã hội", Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh.
Một trong những hệ lụy trước mắt, có thể dễ dàng nhìn thấy được mà các nhà nhân khẩu học gọi là "sức ép hôn nhân" là thiếu hụt nữ giới. Dự báo, nếu tỷ số giới tính khi sinh hiện tại không thay đổi thì đến năm 2034 sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi 15-49 và con số này vào năm 2059 sẽ tăng lên thành 2,5 triệu.
Dư thừa nam giới tức là sẽ ngày càng có nhiều nam giới khó kiếm được vợ, từ đó làm gia tăng nạn buôn người và bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Thừa nam giới còn khiến hàng triệu nam giới phải sống độc thân, cấu trúc gia đình bị phá vỡ; người già neo đơn, không nơi nương tựa sẽ gia tăng…
Việc gia tăng tỷ số giới tính khi sinh còn làm tăng thêm sự bất bình đẳng giới, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tình trạng bạo hành, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, mại dâm .... có nguy cơ tăng lên.
Sự mất cân bằng giới tính khi sinh cao như hiện nay sẽ tác động tiêu cực với cơ cấu dân số trong tương lai theo hướng già hóa và thiếu hụt nam giới ở một số nhóm tuổi, thậm chí gây hệ lụy về kinh tế và xã hội khác. Đó là sự thay đổi về cơ cấu ngành, nghề, môi trường làm việc… Nguy cơ thiếu nhân lực trong một số ngành, nghề vốn thích hợp với phụ nữ như giáo viên, y tá, may mặc…
Đến nay Việt Nam đã tăng cường hoàn thiện và thực thi các chính sách, pháp luật, triển khai nhiều giải pháp can thiệp nhằm giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh như Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 - 2025; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030…