(SKDS) – Chiếc võng được xem như một biểu tượng đặc trưng của người dân nơi đây và đã có thời nghề đan võng ngô đồng rất được thịnh hành nhưng rồi giờ đây, khi mà những giá trị của cuộc sống có nhiều đổi thay, những chiếc võng ngô đồng nổi tiếng ngày nào giờ chỉ còn trong những câu chuyện kể, giống như trong màn sương cổ tích của thời xa xưa, mà có đâu xa lắm, chỉ chừng mươi năm trước thôi. Một lần trong chuyến công tác ra đảo Cù Lao Chàm, thuộc xã đảo Tân Hiệp, TP. Hội An, tôi đã gặp hai người phụ nữ chung thủy với võng ngô đồng, để giữ lại chút gì đó cho mai sau…
Mỗi sợi đan là mỗi giọt mồ hôi
Đặt chân lên đảo, điều đầu tiên tôi hỏi những người dân xã đảo là chuyện về những chiếc võng ngô đồng và người tạo ra nó. Cũng chẳng mấy khó khăn để tôi tìm đến với hai người phụ nữ đan võng ngô đồng duy nhất và cuối cùng hiện nay trên đảo. Cụ Nguyễn Thị Môn (90 tuổi) và bà Mai Thị Rài (73 tuổi, con gái của cụ Môn) là hai người phụ nữ nổi tiếng nhất đảo, vì đã từng được lên các chuyên trang tạp chí du lịch trên nhiều ấn phẩm báo chí của Trung ương và địa phương, được lên cả truyền hình VTV1. Chừng ấy cũng đủ để người dân xã đảo, đặc biệt là hai người phụ nữ ấy cảm thấy tự hào với cái nghề một đời của mình.
Trong căn nhà nhỏ bên một dòng suối tí tách chảy bên chiếc cầu bê tông, hai người phụ nữ tóc bạc ngồi tỉ mẩn với từng mắt võng. Tôi tới bên hai người phụ nữ ấy mà chưa dám giới thiệu mình là ai, bởi đôi tay thoăn thoắt và ánh mắt chăm chú vào công việc khiến gã trẻ tuổi ngây ngô như tôi không dám đánh động. Để rồi đến lúc bà Rài cất tiếng hỏi, tôi mới giật mình rời mắt khỏi chiếc võng trên tay của họ.
Trong ánh mắt khắc khoải của cụ Môn, rồi đây ai sẽ kế thừa cái nghề độc đáo này?! |
Một đời với võng ngô đồng
Trong câu chuyện thân tình với một gã trai trẻ từ phương xa đến, bà Môn và người con gái nay tóc cũng đã phai màu theo sương gió đời người kể với tôi câu chuyện cuộc đời, gắn với những chiếc võng mấy chục năm qua. Chồng mất trong một lần đi biển, cụ Môn quyết định ở vậy nuôi 4 đứa con, lo cho mấy đứa con những vất vả lo toan bằng nghề đan võng. Và những chiếc võng là vật dụng mỗi ngày cụ trao đổi lấy gạo, lấy tôm cá với cư dân đảo để nuôi con khôn lớn thành người. Bây giờ sau 50 năm vật lộn với những nỗi lo toan của đời người, các con cụ Môn cũng đã có gia đình riêng, 3 người đã ra ở riêng hoặc vào đất liền sinh sống. Riêng bà Rài, cô con gái thứ 2 của cụ lại một lần nữa bất hạnh như mẹ.
Cứ thế, bây giờ chỉ còn hai người đàn bà góa nương tựa lẫn nhau, cùng những chiếc võng ngô đồng. Và ngày ngày từ sáng sớm tinh mơ đến khi mặt trời gác mái triền tây, họ dắt nhau lên rừng, đỡ nhau qua từng vách núi, níu vào những thân cây gai góc để chặt và gùi những nhánh cây ngô đồng về đan võng. Cho đến tận bây giờ, cụ Môn chẳng nhớ nổi mình đã đan bao nhiêu chiếc võng trong đời, đã bán cho bao nhiêu người. Nhưng có điều sản phẩm của cụ đã để lại ấn tượng rất tốt đối với du khách khi đến với đảo Cù Lao.
Bên hiên nhà, cụ Môn và bà Rài là hai người đan võng cuối cùng của xứ đảo. |
Trong nỗi buồn tay đan
Người dân trên đảo Cù Lao Chàm bây giờ không mấy ai mặn mà với nghề đan võng này nữa. Bởi cù lao giờ là điểm du lịch phát triển. Những người phụ nữ có thêm nghề bán đồ lưu niệm hoặc kinh doanh hàng quán, đàn ông trai tráng thì đi biển, thế nên chẳng còn ai ngày ngày lên núi chặt ngô đồng về đan võng nữa.
Ông Cao Văn Phải, Chủ tịch UBND xã Tân Hiệp cũng ngậm ngùi: “Khó lắm các anh ạ! Nghề “độc” nhưng chẳng còn mấy ai làm được nữa! Trên đảo này chỉ còn hai mẹ con cụ Môn thôi! Ngày trước chúng tôi cũng tổ chức cho chị em học nghề, nhưng chẳng ai theo nổi vì quá cầu kỳ, quá tỉ mỉ. Chúng tôi cũng biết phải gìn giữ cái nghề cổ độc đáo này, nhưng có lẽ là lực bất tòng tâm thôi!”. Nghe ông Phải nói, tôi cũng thấy ngậm ngùi cho những cánh tay đan đang dần mỏi trong căn nhà nhỏ nơi chân cầu có một lạch nước nhỏ chảy qua. Biết làm sao khi không ai muốn làm nghề này nữa…
Chia tay hai mẹ con cụ Môn, bên hiên nhà đầy nắng chiều, cụ Môn vẫn cặm cụi, tỉ mỉ trau chuốt và đan từng mắt võng. Cụ không ngẩng đầu lên chào tôi mà chỉ thầm thì trong miệng một điều gì đó tôi không nghe rõ. Mà có lẽ có nghe được tôi cũng không biết nói gì thêm nữa. Bởi tôi biết chắc chắn rằng một ngày nào đó, khi thời gian nghiệt ngã đổ sập xuống hai mái đầu đã bạc kia, thì chiếc võng cuối cùng của hai mẹ con cụ Môn rồi cũng sẽ là chiếc võng ngô đồng cuối cùng của xứ này, của nước này. Và cũng sẽ chấm dứt luôn cái nghề dân dã độc đáo này trong sự ngẩn ngơ tiếc nuối. Chiều xuống trên triền núi, những nhánh ngô đồng đang mùa nở hoa, sẽ thao thức lắm trong nỗi đợi trông cánh tay người đan võng, mai này sẽ còn ai đan võng ngô đồng…
Bài và ảnh: Hữu Cường