Mai này ai còn đan võng ngô đồng

08-06-2012 14:05 | Xã hội
google news

Chiếc võng được xem như một biểu tượng đặc trưng của người dân nơi đây và đã có thời nghề đan võng ngô đồng rất được thịnh hành nhưng rồi giờ đây, khi mà những giá trị của cuộc sống có nhiều đổi thay,

(SKDS) – Chiếc võng được xem như một biểu tượng đặc trưng của người dân nơi đây và đã có thời nghề đan võng ngô đồng rất được thịnh hành nhưng rồi giờ đây, khi mà những giá trị của cuộc sống có nhiều đổi thay, những chiếc võng ngô đồng nổi tiếng ngày nào giờ chỉ còn trong những câu chuyện kể, giống như trong màn sương cổ tích của thời xa xưa, mà có đâu xa lắm, chỉ chừng mươi năm trước thôi. Một lần trong chuyến công tác ra đảo Cù Lao Chàm, thuộc xã đảo Tân Hiệp, TP. Hội An, tôi đã gặp hai người phụ nữ chung thủy với võng ngô đồng, để giữ lại chút gì đó cho mai sau…

Mỗi sợi đan là mỗi giọt mồ hôi

Đặt chân lên đảo, điều đầu tiên tôi hỏi những người dân xã đảo là chuyện về những chiếc võng ngô đồng và người tạo ra nó. Cũng chẳng mấy khó khăn để tôi tìm đến với hai người phụ nữ đan võng ngô đồng duy nhất và cuối cùng hiện nay trên đảo. Cụ Nguyễn Thị Môn (90 tuổi) và bà Mai Thị Rài (73 tuổi, con gái của cụ Môn) là hai người phụ nữ nổi tiếng nhất đảo, vì đã từng được lên các chuyên trang tạp chí du lịch trên nhiều ấn phẩm báo chí của Trung ương và địa phương, được lên cả truyền hình VTV1. Chừng ấy cũng đủ để người dân xã đảo, đặc biệt là hai người phụ nữ ấy cảm thấy tự hào với cái nghề một đời của mình.

Trong căn nhà nhỏ bên một dòng suối tí tách chảy bên chiếc cầu bê tông, hai người phụ nữ tóc bạc ngồi tỉ mẩn với từng mắt võng. Tôi tới bên hai người phụ nữ ấy mà chưa dám giới thiệu mình là ai, bởi đôi tay thoăn thoắt và ánh mắt chăm chú vào công việc khiến gã trẻ tuổi ngây ngô như tôi không dám đánh động. Để rồi đến lúc bà Rài cất tiếng hỏi, tôi mới giật mình rời mắt khỏi chiếc võng trên tay của họ.

Mặc dầu đã ở cái tuổi tri thiên mệnh và qua biết bao gian khó của cuộc đời, nhưng bà Nguyễn Thị Môn vẫn đủ minh mẫn để nói với tôi về công việc đặc biệt có một không hai trên đảo và trên cả dải đất miền Trung khắc khổ này. Võng ngô đồng không phải là thứ võng thông thường, nó độc đáo ở chỗ được làm từ sợi của thân cây ngô đồng (một loài cây chỉ mọc ở trên những mỏm núi cao, hay vách đá cheo leo). Mặc cho nắng, gió, bão biển…, rễ cây vẫn bám chặt vào đá, thân cây luôn dẻo dai, vươn thẳng mình như thách thức với sự khắc nghiệt của đại dương. Ngô đồng còn là một loài cây đẹp và không kém phần lãng mạn. Khoảng từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9, khi gió đảo đã trút đi hết những chiếc lá cuối cùng để lại trơ trọi cành, cũng là lúc cây đâm chồi, nở rực một màu hoa đỏ ngập tràn Cù Lao.
 
 Trong ánh mắt khắc khoải của cụ Môn, rồi đây ai sẽ kế thừa cái nghề độc đáo này?!
Bà Môn bảo, đời ông cha bà đã phát hiện ra những đặc tính có một không hai của loài cây đặc biệt trên đảo này, để sử dụng khi đan gùi, võng, làm dây thừng và nhiều thứ vật liệu khác. Cầm chiếc võng trên tay, bà Môn nói: “Ngó chừng vầy thôi nhưng chiếc võng này đã ngót nghét 30 năm có lẻ rồi đấy! 30 năm mà không đứt, không sút một sợi dây nào. Đây là những vết răng chuột cắn mới rứa, nếu để thường thì có thể dùng trên dưới trăm năm mới hư được!”. Nhìn chiếc võng trên tay cụ Môn, dấu vết của thời gian đã in hằn trên những mắt võng, trên từng thớ sợi. Bà Môn thủ thỉ: “Để làm ra một chiếc võng ngô đồng phải mất chừng ba tháng ròng rã. Phải lấy sợi từ trên núi, nơi những thân cây ngô đồng to chừng bắp chân người. Sau đó dùng búa dập nát theo thớ của thân cây, rồi đem ngâm trong nước tù của ruộng chừng 7 ngày, cho lớp vỏ cứng mềm mục, nhả dần ra, lộ sợi xơ thì đem vớt lên.
 
Tiếp tục dùng tay tước lớp vỏ cứng đã mục lấy lớp xơ màu trắng đục, đem giặt sạch bằng nước suối trong rồi đem ra phơi nắng thật khô, đến khi chuyển thành màu trắng ngà tinh mới, có độ óng là lúc xơ đã sẵn sàng để đan võng. Người đan không những khéo léo mà còn phải kiên trì, bền bỉ. Khi đan võng tuyệt đối không được đan lỗi, vì khi đã bị lỗi thì không gỡ ra được nữa…”. Bà Môn nói nhiều lắm, nhưng tôi chẳng thể nào ghi nhớ hết được, chỉ biết đại loại rằng đan võng là một công việc rất công phu, đầy tỉ mẩn và rất mất thời gian. Công việc chỉ dành cho những người có tính cần cù, kiên nhẫn nhất mới chịu được…

Một đời với võng ngô đồng

Trong câu chuyện thân tình với một gã trai trẻ từ phương xa đến, bà Môn và người con gái nay tóc cũng đã phai màu theo sương gió đời người kể với tôi câu chuyện cuộc đời, gắn với những chiếc võng mấy chục năm qua. Chồng mất trong một lần đi biển, cụ Môn quyết định ở vậy nuôi 4 đứa con, lo cho mấy đứa con những vất vả lo toan bằng nghề đan võng. Và những chiếc võng là vật dụng mỗi ngày cụ trao đổi lấy gạo, lấy tôm cá với cư dân đảo để nuôi con khôn lớn thành người. Bây giờ sau 50 năm vật lộn với những nỗi lo toan của đời người, các con cụ Môn cũng đã có gia đình riêng, 3 người đã ra ở riêng hoặc vào đất liền sinh sống. Riêng bà Rài, cô con gái thứ 2 của cụ lại một lần nữa bất hạnh như mẹ.

Cứ thế, bây giờ chỉ còn hai người đàn bà góa nương tựa lẫn nhau, cùng những chiếc võng ngô đồng. Và ngày ngày từ sáng sớm tinh mơ đến khi mặt trời gác mái triền tây, họ dắt nhau lên rừng, đỡ nhau qua từng vách núi, níu vào những thân cây gai góc để chặt và gùi những nhánh cây ngô đồng về đan võng. Cho đến tận bây giờ, cụ Môn chẳng nhớ nổi mình đã đan bao nhiêu chiếc võng trong đời, đã bán cho bao nhiêu người. Nhưng có điều sản phẩm của cụ đã để lại ấn tượng rất tốt đối với du khách khi đến với đảo Cù Lao.

Nhìn những sợi ngô đồng được bện lại trong đôi bàn của mẹ con cụ Môn, dẫu những vết chai sần và sự nghiệt ngã của thời gian hằn in trên đôi bàn tay nhăn nheo của cả hai người, thấy trong đó là cả một sự cố gắng, cả một niềm yêu thích, như một cái nghiệp đeo đuổi cuộc đời của hai người. Nhưng điều làm mẹ con cụ Môn và có lẽ của cả những người tâm huyết với võng ngô đồng, với cái nghề đan võng có một không hai này trăn trở không phải sự vất vả, cực nhọc khi làm võng, mà họ sợ một ngày nào đó cái nghề độc đáo này sẽ biến mất. Bởi cho đến tận lúc này, cả hai mẹ con cụ Môn vẫn chưa tìm được truyền nhân để gìn giữ cái nghề này.
 
Đã mấy chục năm nay, thi thoảng cũng có người theo đuổi nghề này nhưng chỉ được một vài năm rồi thôi, bởi không ai đủ kiên nhẫn để chịu nổi sự công phu, tỉ mỉ, kiên nhẫn và... ít hiệu quả kinh tế như nghề đan võng này, mặc dù như cụ Môn cho biết, giá thành của mỗi chiếc võng hiện tại không dưới 3,2 triệu đồng một chiếc. Và mặc dù hiện tại, hai mẹ con cụ Môn đan võng không đủ để bán. Có người đến mua võng, đặt tiền trước rồi… một năm sau mới nhận được hàng. Có khách hàng là người nước ngoài khi đặt hàng rồi không thể quay lại lấy được, cụ Môn vẫn giữ lại chiếc võng cho họ, bởi như cụ nói: “Người ta có quý, có thích mới đặt mình làm.
 
Mình làm không chỉ vì tiền, mà còn vì tấm lòng của người ta với công việc của mình, với cái nghề độc đáo của mình. Mình nhận làm võng cho họ rồi, tiền đã nhận rồi, họ vì điều kiện không đến lấy được thì mình giữ lại cho họ đến khi nào họ đến lấy. Giữ chiếc võng trong nhà cũng đâu khó chi mô!”. Hiện tại trong nhà cụ Môn đang còn giữ 3 chiếc võng đặt hàng của du khách nước ngoài mà họ chưa đến lấy, nhiều người khách khác khi thấy có sẵn những chiếc võng đan xong rồi, trả giá gấp đôi, gấp ba lần bình thường để lấy võng đi nhưng không được cụ Môn đồng ý. Bởi theo cụ, làm gì cũng phải có chữ tín mới được.
 Bên hiên nhà, cụ Môn và bà Rài là hai người đan võng cuối cùng của xứ đảo.

Trong nỗi buồn tay đan

Người dân trên đảo Cù Lao Chàm bây giờ không mấy ai mặn mà với nghề đan võng này nữa. Bởi cù lao giờ là điểm du lịch phát triển. Những người phụ nữ có thêm nghề bán đồ lưu niệm hoặc kinh doanh hàng quán, đàn ông trai tráng thì đi biển, thế nên chẳng còn ai ngày ngày lên núi chặt ngô đồng về đan võng nữa.

Ông Cao Văn Phải, Chủ tịch UBND xã Tân Hiệp cũng ngậm ngùi: “Khó lắm các anh ạ! Nghề “độc” nhưng chẳng còn mấy ai làm được nữa! Trên đảo này chỉ còn hai mẹ con cụ Môn thôi! Ngày trước chúng tôi cũng tổ chức cho chị em học nghề, nhưng chẳng ai theo nổi vì quá cầu kỳ, quá tỉ mỉ. Chúng tôi cũng biết phải gìn giữ cái nghề cổ độc đáo này, nhưng có lẽ là lực bất tòng tâm thôi!”. Nghe ông Phải nói, tôi cũng thấy ngậm ngùi cho những cánh tay đan đang dần mỏi trong căn nhà nhỏ nơi chân cầu có một lạch nước nhỏ chảy qua. Biết làm sao khi không ai muốn làm nghề này nữa…

Chia tay hai mẹ con cụ Môn, bên hiên nhà đầy nắng chiều, cụ Môn vẫn cặm cụi, tỉ mỉ trau chuốt và đan từng mắt võng. Cụ không ngẩng đầu lên chào tôi mà chỉ thầm thì trong miệng một điều gì đó tôi không nghe rõ. Mà có lẽ có nghe được tôi cũng không biết nói gì thêm nữa. Bởi tôi biết chắc chắn rằng một ngày nào đó, khi thời gian nghiệt ngã đổ sập xuống hai mái đầu đã bạc kia, thì chiếc võng cuối cùng của hai mẹ con cụ Môn rồi cũng sẽ là chiếc võng ngô đồng cuối cùng của xứ này, của nước này. Và cũng sẽ chấm dứt luôn cái nghề dân dã độc đáo này trong sự ngẩn ngơ tiếc nuối. Chiều xuống trên triền núi, những nhánh ngô đồng đang mùa nở hoa, sẽ thao thức lắm trong nỗi đợi trông cánh tay người đan võng, mai này sẽ còn ai đan võng ngô đồng…

  Bài và ảnh: Hữu Cường


Ý kiến của bạn