Mã tiền là hạt quả đã chín già phơi khô của cây mã tiền (Strychnos nuxvomica L.), thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Mã tiền chứa dầu béo, glycosid (loganosid), acid loganic, stigmasterin, cyloartenol và nhiều alcaloid: strychnin, brucin, vomicin, cloubrin, psedostrychnin, loganin…
Theo Đông y, mã tiền vị đắng, tính hàn, rất độc; vào kinh can và tỳ. Có tác dụng thông lạc chỉ thống, tiêu thũng tán kết. Dùng trừ phong thấp tý, ung thư sang độc, tổn thương sưng đau; co rút tê dại, liệt. Liều dùng và cách dùng: 0,1 - 0,8g. Dược liệu đã qua chế biến. Chú ý: Để tránh ngộ độc, khi uống các thành phẩm có mã tiền phải uống ở liều thấp nhất đến liều sử dụng cho phép.
Một số bài thuốc có mã tiền:
Hoạt lạc, giảm đau: trị phong thấp, đau khớp hoặc khớp biến dạng.
Bài 1: bột mã tiền chế 50g, bột hương phụ tứ chế 13g, bột mộc hương 8g, bột địa liền 6g, bột thương truật 20g, bột quế chi 3g, tá dược vừa đủ 1.000 viên. Ngày uống 4 viên, tối đa 6-8 viên. Mỗi đợt uống 50 viên thì nghỉ. Chữa tê thấp, đau nhức xương khớp.
Bài 2: hạt mã tiền chế 380g, xuyên ô chế 380g, thảo ô chế 380g, khương hoạt 380g, ngưu tất 335g, ma hoàng 335g, độc hoạt 380g, phụ tử chế 70g, đương quy 335g, mộc qua 335g, nhũ hương 155g, một dược 155g. Nghiền chung thành bột mịn, lấy quế chi 125g, sắc lấy nước đặc, làm thành hoàn bằng hạt đậu xanh. Trước khi đi ngủ, uống 4g với nước đun sôi còn nóng. Trị đau nhức khớp lâu ngày không khỏi và cả khớp biến dạng.
Hạt mã tiền là thuốc quý trị phong thấp, tê bại chân tay, cắt cơn động kinh,… Tuy nhiên mã tiền rất độc, khi uống phải qua chế biến và dùng từ liều thấp nhất.
Cường cân khởi nuy (bền gân, khỏi mềm nhũn): trị tê bại cơ, gân, chân tay yếu mềm nhũn.
Bài 1: hạt mã tiền 63g, tỳ giải 63g, ngưu tất 63g, thịt rắn đen 63g, tục đoạn 63g, rết 63g, dâm dương hoắc 63g, đương quy 63g, nhục thung dung 63g, cẩu tích 63g, mai mực 63g, mộc qua 63g, thỏ ty tử 80g, tằm vôi 125g. Bỏ riêng dâm dương hoắc sắc lấy nước để làm hoàn, các vị khác nghiền chung thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 0,8 - 1,5g (người yếu mệt giảm liều), uống với nước sôi còn ấm. Trị di chứng của trẻ em tê bại.
Bài 2: Hoàn trị tê liệt (triệt thán hoàn): hạt mã tiền chế 30g, xuyên khung 63g, xích thược 63g, đỗ trọng 63g, xương bồ 63g, đại hoàng 63g, hồng hoa 63g, quy vĩ 63g, huyết kiệt 63g, nhân hạt đà 63g, nhũ hương 63g, một dược 63g, ngưu tất 63g, manh trùng 8g, thổ miết trùng 20g, hài nhi trà 20g, ma hoàng 20g, bạch giới tử 20g, trầm hương 12g. Nghiền chung thành bột mịn, luyện với mật, làm thành hoàn 8g. Mỗi lần uống 1/3 hoàn, sau đó tăng lên tới 1/2 cho đến 2 hoàn. Ngày uống 2 lần, uống với nước đun sôi. Nếu thấy có phản ứng rõ rệt thì thôi không uống tăng liều nữa. Tác dụng: Trị bị tê liệt, tê liệt do chấn thương.
Trừ phong, cắt cơn động kinh:
Bài thuốc: hạt mã tiền (bỏ lông ngoài) 32g, dầu vừng 1.000g, giun đất sấy khô 8 con (nghiền thành bột). Cho dầu vừng vào chảo đun sôi, thả hạt mã tiền vào, rán đến khi có màu đỏ tía, lấy ra, nghiền thành bột. Trộn với bột giun đất, lấy bột mì làm hồ, hoàn bằng hạt cải. Mỗi lần uống 0,35 - 1g (trẻ em giảm bớt liều), uống lúc sắp đi ngủ với nước muối. Trị chứng điên giản co rút, lên cơn nhiều lần không khỏi.
Tan ứ, tiêu thũng: trị sưng nhọt độc, ung nhọt và thương tích do bị đánh, ngã…
Bài 1: Hạt mã tiền chế, thanh mộc hương, sơn đậu căn, liều lượng như nhau. Nghiền thành bột. Thổi vào họng. Trị họng sưng đau.
Bài 2: Hạt mã tiền, chỉ xác, liều lượng như nhau. Hạt mã tiền ngâm trong nước tiểu 49 ngày, vớt ra, cạo bỏ lông, thái lát, sao với đất vàng đến tồn tính. Chỉ xác ngâm trong nước tiểu 49 ngày, vớt ra, phơi khô, thái lát, sao tồn tính với đất vàng. Tất cả nghiền thành bột, trộn đều. Người lớn mỗi lần uống 1,2 - 2g, uống với đường đỏ và rượu trắng (thay đổi nhau). Trị chấn thương sưng tụ do bị ngã, bị đánh. Trị vết thương do dao, búa chém và bỏng lửa: trộn với ít rượu đắp lên chỗ bỏng lửa, lấy bột thuốc rắc lên vết chém do dao, búa.
Kiêng kỵ: Người mất ngủ và di tinh cấm uống. Hạt mã tiền rất độc, nếu dùng theo đường uống phải qua chế biến và bào chế. Sau khi uống phải tránh gió. Nếu thấy ngộ độc (giật giật ở môi và các cơ; nặng hơn thấy ngáp, nước dãi chảy nhiều, nôn mửa, sợ ánh sáng, mạch nhanh và yếu…), có thể lấy nhục quế 8g sắc uống để giải độc.