Tại buổi tọa đàm Giáo dục đại học "Thách thức và Cơ hội" tổ chức mới đây, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn so sánh tỷ lệ người theo học đại học (tức là toàn bộ sinh viên đang học so với người trong tuổi học đại học 18 - 23 tuổi) ở Việt Nam hiện thấp so với thế giới. Nếu tính quy mô trung bình 6.000 - 7.000 sinh viên/trường thì khá thấp dù số lượng trường nhiều.
Về nguyên nhân, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT lý giải: Thứ nhất, trong quan hệ thị trường, nhu cầu của thị trường kinh tế xã hội đối với nguồn nhân lực trình độ cao tính từ đại học, sau đại học chưa như các nước khác.
Thứ hai, do nguồn cung liên quan đến năng lực đào tạo, chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học. Năng lực hạn chế bởi nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài chính cũng sẽ bó hẹp khiến không tăng nhanh số lượng được. Đồng thời, chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học chưa đồng đều.
Thứ ba, là vấn đề người học, họ luôn cân nhắc lợi ích giữa chi phí với lợi ích đạt được. Lựa chọn trường này hay trường kia, trong nước hoặc ngoài nước, thậm chí là đi học hay không đi học. Và đặc biệt, nếu người học chưa tin tưởng chất lượng thì số lượng không thể tăng được.
"Cả 3 yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng nhìn chung, nguồn lực phát triển giáo dục đại học chưa tương xứng với yêu cầu phát triển quy mô và chất lượng", Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh.
GS.TSKH Đặng Ứng Vận, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ cũng chỉ ra nguyên nhân tỷ lệ sinh viên so với toàn dân hiện nay ở Việt Nam thấp. Trong đó, GS.TSKH Đặng Ứng Vận nhấn mạnh đến sức hấp dẫn của giáo dục đại học đối với thế hệ trẻ giảm sút.
Trước đây, khi thi đại học, nhiều người thi và một người đỗ, được vào đại học là một vinh hạnh rất lớn, rất hấp dẫn. Tuy nhiên, hiện nay khi chúng ta mở rộng và thậm chí là mở rộng quá mức nên sinh viên vào các trường đại học bây giờ không thấy háo hức như trước, học thế nào cũng vào được đại học, không vào được các trường top đầu thì sẽ vào các trường có chất lượng thấp hơn. Điều này làm giảm động lực học tập của các em học sinh.
Đáng lo ngại hơn là khi các em vào trường mà không có động lực học tập thì sẽ rất khó khăn. Cùng với đó, mức lương khi sinh viên tốt nghiệp ra trường được trả quá thấp, ví dụ như ngành giáo dục mầm non vẫn chỉ trả lương trung cấp, như vậy khó có thể có cơ cấu giáo dục mầm non tốt?
Bên cạnh đó, sức tiêu thụ các sản phẩm giáo dục đại học theo đúng nghĩa của nền kinh tế Việt Nam hiện nay không cao vì chúng ta vẫn tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ, còn với những ngành công nghiệp cao cấp hơn vẫn chưa có các doanh nghiệp mang tính quyết định nền kinh tế mà chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Và nếu đã là doanh nghiệp nhỏ vừa vừa thì mỗi doanh nghiệp có một nhu cầu nhân lực riêng, trường đại học khó có thể đáp ứng được. Các trường chỉ có thể đào tạo cho sinh viên các kiến thức nền tảng, cơ bản để khi đến làm tại các doanh nghiệp sẽ thích nghi tùy theo nhu cầu của từng doanh nghiệp.
Một vấn đề nữa đối với các trường đại học hiện nay là khi có ngành nghề nào đó mà dễ được tuyển dụng thì các trường sẽ "ào ào" mở lớp nhưng vì chúng ta chỉ có những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên lượng nhân sự cần thiết không lớn, chỉ cần đào tạo một, hai năm ngành đó không tuyển sinh được nữa. Điều này cho thấy việc đào tạo của các trường hiện đang nhanh bị bão hòa do nền kinh tế chưa tiêu thụ hết các sản phẩm đào tạo có lượng đầu ra lớn như vậy.