Lỵ amíp và dùng thuốc

08-07-2011 07:26 | Dược
google news

Môi trường ăn, ở mất vệ sinh là điều kiện cho lỵ amíp có cơ hội phát triển. Khi mắc bệnh, nếu không được điều trị kịp thời, bệnh sẽ chuyển thành mạn tính, kéo dài, việc điều trị trở nên khó khăn hơn…

Môi trường ăn, ở mất vệ sinh là điều kiện cho lỵ amíp có cơ hội phát triển. Khi mắc bệnh, nếu không được điều trị kịp thời, bệnh sẽ chuyển thành mạn tính, kéo dài, việc điều trị trở nên khó khăn hơn…

Dấu hiệu của lỵ do amíp

Amíp là những nguyên sinh động vật, chỉ là một tế bào nhưng có khả năng di chuyển định hướng nhờ chân giả. Đa số các amíp sống tự do ở môi trường bên ngoài, một số ít sống ký sinh. Trong ruột già của người có khoảng 6-7 loài amíp sống ký sinh, trong đó Entamoeba histolytica là tác nhân gây bệnh quan trọng. Khi vào cơ thể sẽ gây ra các tổn thương (lỵ amíp) hoặc các tổn thương ngoài ruột như gan, não, da...

Viêm đại tràng do amíp có triệu chứng  từ 2-6 tuần sau khi ăn phải kén lây nhiễm. Đau bụng dưới và tiêu chảy là triệu chứng cảnh báo, sau đó người bệnh thấy mệt mỏi và chán ăn, đau quặn bụng từng cơn ở vùng hố chậu phải (vùng hồi manh tràng), nếu bệnh kéo dài có thể đau cả hố chậu phải do tổn thương đại trực tràng; mót rặn và đi ngoài giả (mót đi ngoài nhưng không đi ngoài được), đau lan tỏa bụng dưới hoặc ra sau lưng. Trong thời kỳ toàn phát, người bệnh có thể đi đại tiện từ 10-15 lần/ngày, có cảm giác mót rặn muốn đi đại tiện mãi. Phân chủ yếu là máu và nhầy nhớt. Bệnh nhân bị lỵ amíp thường không sốt, đây là điểm để phân biệt với lỵ trực khuẩn (Shigella) thường sốt nhiều, sốt cao.

Diễn tiến của đợt cấp tính kéo dài từ vài ngày đến vài tuần tùy theo việc điều trị được tiến hành sớm hay muộn. Bệnh lỵ amíp dễ bị tái nhiễm và tiến triển thành mạn tính.

Các thuốc thường dùng

- Emetin: đây là alkaloid chiết xuất từ cây Ipeca. Thuốc có nhiều độc tính và tích tụ trong cơ thể gây độc tính ở tim, thận, hệ thần kinh nên hiện nay ít dùng và được thay thế bằng dẫn chất tổng hợp là dehydroemetin ít độc hơn. Thuốc có tác dụng cản trở không hồi phục quá trình tổng hợp protein của amíp, nên có tác dụng diệt amíp. Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai.

- Nhóm imidazole ( metronidazole, tinidazole, ornidazole): Thuốc khuếch tán, thâm nhập sâu vào bên trong và phá hủy hay ức chế sự tổng hợp AND của ký sinh trùng. Loại thuốc này có ưu điểm diệt được cả thể kén và thể đơn bào amíp, nhưng khi dùng thuốc kéo dài cần lưu ý vì có thể gặp tác dụng phụ như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mày đay... các dấu hiệu này thường nhẹ và sẽ hết sau khi ngừng thuốc. Đặc biệt đối với bệnh nhân có tiền sử rối loạn huyết động học, khi sử dụng dài ngày loại thuốc này nhất thiết phải được theo dõi công thức bạch cầu. Không được dùng thuốc cho phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ cho con bú.

- Nhóm di-iodohydroxyquinolin: là những thuốc trị amíp bằng cách tiếp xúc. Không nên dùng phối hợp các thuốc nhóm này với nhau hay dùng liều cao liên tục  vì thuốc gây viêm tủy bán cấp, viêm dây thần kinh ngoại biên và tổn thương thị giác. Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai, trẻ còn bú, bệnh nhân cường giáp. Tác dụng phụ có thể gặp là buồn nôn, đau dạ dày, dị ứng da, có thể gây rối loạn chức năng tuyến giáp.

Ngoài ra trong dân gian còn dùng một số thuốc Đông y như hạt và vỏ của cây mộc hoa trắng, thừng mực lá to, sừng trâu, vỏ cây hậu phác, chiêu liêu, hoàng cầm… để điều trị bệnh lỵ do amíp.

Để điều trị bệnh do amíp đạt hiệu quả cao, việc chọn lựa loại thuốc gì, hàm lượng cụ thể như thế nào nhất thiết phải do thầy thuốc chỉ định cụ thể, người bệnh không được tự ý dùng để tránh những tác dụng không mong muốn của các loại thuốc diệt amíp. Phòng bệnh chủ yếu là ăn chín uống sôi, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và không dùng phân tươi bón cho các loại rau...

ThS. Nguyễn Vân Anh


Ý kiến của bạn