Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh tự miễn mạn tính, không rõ nguyên nhân, gây tổn thương hầu hết các hệ thống cơ quan trong cơ thể và trong trường hợp nặng có thể đe dọa đến tính mạng của người bệnh.
Vì sao bị Lupus ban đỏ hệ thống?
Bình thường, hệ miễn dịch giúp cơ thể chúng ta chống lại sự xâm nhập của các tác nhân lạ (vi khuẩn, virut...) nhưng trong Lupus ban đỏ hệ thống cũng như các bệnh tự miễn khác, hệ thống miễn dịch mất khả năng phân biệt lạ - quen và quay ra các kháng thể lại các tế bào của hầu hết các cơ quan.
Một số tổn thương cơ thể do Lupus ban đỏ.
Mặc dù nguyên nhân gây bệnh chính thức không được rõ nhưng người ta cho rằng Lupus ban đỏ hệ thống được gây ra do sự phối hợp của nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là các yếu tố như: Di truyền: theo nghiên cứu những người có tiền sử gia đình anh chị em ruột bị mắc Lupus ban đỏ hệ thống có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 20 lần so với người bình thường; Môi trường: do nhiễm khuẩn, tiếp xúc với các loại hóa chất, ánh nắng mặt trời cũng có thể mắc bệnh; Nội tiết: bệnh gặp chủ yếu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Theo nghiên cứu, tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh cao gấp 9 lần so với nam giới, đặc biệt phụ nữ sau khi mãn kinh, trong thời kỳ mang thai bệnh thường nặng lên.
Dấu hiệu nhận biết
Các triệu chứng của Lupus ban đỏ hệ thống có thể xuất hiện đột ngột hoặc từ từ sau nhiều tháng, nhiều năm. Do ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể nên triệu chứng của bệnh hết sức phong phú, đa dạng và thường nặng lên vào các tháng mùa đông. Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra giả thiết có lẽ do hậu quả của sự tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời trong thời gian hè trước đó. Thực tế trên lâm sàng có hơn 90% số bệnh nhân đến khám có các biểu hiện không đặc hiệu như: sút cân, mệt mỏi, sốt nhẹ, rụng tóc, viêm loét miệng, đau các khớp nhỏ. Thậm chí nhiều trường hợp bị đau mỏi cơ, ở phụ nữ bị rối loạn kinh nguyệt.
Có khoảng 3/4 số bệnh nhân thấy nổi các ban đỏ bất thường trên da, trong đó hay gặp nhất là ban cánh bướm ở mặt, một dấu hiệu rất đặc trưng của Lupus ban đỏ hệ thống (ban đỏ ở 2 gò má bắc cầu qua sống mũi).
Biến chứng phức tạp
Nếu bệnh không được điều trị kiểm soát có thể gây ra những tổn thương nặng nề ở hầu hết các cơ quan nội tạng như: Tại tim, bệnh Lupus ban đỏ hệ thống có thể gây tràn dịch màng tim, viêm cơ tim; Tại phổi có thể gây tràn dịch màng phổi, viêm phổi; Tại thận có thể gây viêm cầu thận; Tại hệ thần kinh có thể gây co giật, rối loạn tâm thần; Tại hệ tạo máu, Lupus ban đỏ hệ thống có thể gây thiếu máu, xuất huyết. Trên lâm sàng, biến chứng này thường thấy trong giai đoạn toàn phát của bệnh ở khoảng 50 - 85% số bệnh nhân và là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tử vong.
Các triệu chứng này thường diễn biến thành từng đợt, xen kẽ giữa những thời gian lui bệnh. Trong giai đoạn đầu của bệnh, các triệu chứng thường mơ hồ giống với nhiều bệnh lý khác cho nên kể từ lúc có những triệu chứng đầu tiên cho đến khi bệnh được chẩn đoán chính xác có thể phải mất vài năm.
Kiểm soát bệnh thế nào?
Lupus ban đỏ hệ thống không thể điều trị khỏi hoàn toàn nhưng có thể kiểm soát được nếu điều trị đúng. Mục đích chính của điều trị là nhằm giảm thiểu triệu chứng và hạn chế các tổn thương nội tạng nặng.
Trong giai đoạn bệnh đang cấp, người bệnh cần được tăng cường nghỉ ngơi, nhưng vẫn cần một chế độ vận động hợp lý để tránh teo cơ và cứng khớp. Các thuốc chống viêm giảm đau không steroid như: aspinrin, ibuprofen... có hiệu quả tốt với các triệu chứng ở cơ và khớp. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị, người bệnh cần tuân thủ tuyệt đối chỉ định của các bác sĩ để tránh những tác dụng phụ của thuốc và biến chứng nguy hiểm.
Dự phòng các đợt cấp của bệnh
Người bệnh mắc Lupus ban đỏ hệ thống cần có một cuộc sống lành mạnh, vận động thường xuyên, ít sang chấn tâm lý. Ngoài ra, tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời thường là nguyên nhân khởi phát hoặc làm nặng các đợt cấp của bệnh nên cần được tránh tiếp xúc tối đa. Việc ngừng đột ngột các thuốc, đặc biệt là thuốc corticosteroid cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các đợt cấp của bệnh. Chính vì vậy, đối với bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống cần tuân thủ mọi nguyên tắc dùng thuốc và tái khám thường xuyên để kiểm soát bệnh chặt chẽ.
PGS.TS. Nguyễn Văn Đoàn