Lược cài tóc mây

20-05-2016 11:00 | Xã hội
google news

SKĐS - Trước khi về làng nghề làm lược sừng Thụy Ứng, Thường Tín, Hà Nội, tôi cứ ám ảnh với câu thơ của Huỳnh Hữu Vô: “Cây lược em cài trên tóc. Thắm vàng lá đẫm thu phai.

Trước khi về làng nghề làm lược sừng Thụy Ứng, Thường Tín, Hà Nội, tôi cứ ám ảnh với câu thơ của Huỳnh Hữu Vô: “Cây lược em cài trên tóc. Thắm vàng lá đẫm thu phai. Sương xưa chút hồn thơ đọng. Có nghe thềm nhớ trăng đầy”. Ngẫm cái lược sinh thành từ những chiếc lá thông chải lên mái tóc, vậy mà đến nay nó đã gắn bó với con người đã 5.000 năm, thân thiện và lãng mạn với cuộc đời.

Lược sừng Thụy Ứng đây mà...

Đó là những lời thân thương của mọi người mỗi khi cầm trên tay chiếc lược sừng. Họ nhận ra vì chỉ có làng Thụy Ứng là nơi duy nhất làm ra những chiếc lược sừng ở nước ta. Xa xưa còn có một làng ở Hưng Yên làm lược bí bằng gỗ và tre, nhưng nay đã bị rơi vào quên lãng. Cùng với đó, những cơ sở sản xuất từng tung hoành trên thị trường, với hàng loạt mẫu mã lược nhựa, đã làm chao đảo những người làm nghề lược sừng ở Thụy Ứng. Vậy mà cho đến nay, với truyền thống làng nghề lược sừng 400 năm qua, những người dân nơi đây vẫn cặm cụi giữ lấy nghề để mưu sinh, tồn tại.

Góc phân xưởng làm lược.

Giờ đây, làng Thụy Ứng không chỉ còn làm lược sừng mà còn làm nhiều chủng loại hàng dân sinh khác như môi, thìa, đũa, khay, đĩa... cùng với những mặt hàng mỹ nghệ trang trí. Đó còn là những quân cờ, trâm cài tóc, tranh dân gian, đồ thờ và cả điêu khắc sừng trang trí nội thất rất độc đáo. Nhưng có lẽ lược sừng vẫn là mặt hàng chính, mà Thụy Ứng đã cung cấp cho hàng chục tỉnh thành miền Bắc trong nhiều năm qua. Đến đâu người ta vẫn nhận ra hình chiếc lược hình múi bưởi thân quen và những chiếc lược bí bằng sừng của Thụy Ứng. Những mối tình đã chớm nở, những ký ức không phai trong một gia đình cũng gắn bó với chiếc lược của làng. Có những câu ca dao hình thành từ xưa khi người dân của làng kéo nhau lên thành Thăng Long lập nên phố Hàng Lược để buôn bán, rằng: “Lược sừng Thụy Ứng chàng ơi. Trăm nghề quê thiếp, thiếp mời chàng mua”; hoặc còn đó: “Lược sừng Thụy Ứng đây mà. Rẽ ngôi nàng chải thướt tha tóc bồng”. Lâu nay chiếc lược đã trở thành tín hiệu tình yêu thầm kín và là món quà cho mỗi chuyến đi xa, hẹn ngày trở lại.

Nay, ai đến làng cũng đều nhận thấy không khí nhộn nhịp cảnh mua bán, chế biến nguyên liệu sừng và thiết kế các mẫu mã các mặt hàng. Ngoài sự mưu sinh, người dân Thụy Ứng còn nuôi dưỡng niềm tự hào về truyền thống văn hóa của một làng nghề làm đẹp cho đời. Bởi lược của họ đã trở nên thân quen trong mỗi gia đình trong mỗi nếp sinh hoạt trong dân gian gắn bó với ý niệm về cái đẹp: “Cái tóc là góc con người”. Từ xưa lược sừng trở thành bảo vật của làng với danh xưng “Đệ nhất Thăng Long nghề” từ thời Lê Trung Tông, niên hiệu Bình Thuận (1548-1556). Đền thờ Tổ nghề làm lược và các đồ sừng vẫn còn ghi, đây là nghề mãi mãi nuôi sống dân làng, làm nên tên tuổi của Thụy Ứng.

Mọi chuyện ngỡ như cánh diều gặp gió, người làm nghề ở Thụy Ứng cứ thế mà đi lên với danh tiếng của làng, nhưng ẩn giấu trong không khí “trẩy hội” vẫn còn đó những nỗi niềm cần được giải tỏa. Đó là chuyện hội làng nghề vẫn chưa được thành lập trong hàng chục năm chờ đợi. Bên cạnh đó, những góc tối như môi trường và an toàn lao động trong mỗi cơ sở vẫn còn là vấn đề không dễ gì khắc phục ngày một ngày hai, với câu chuyện mạnh ai nấy làm như hiện nay. Cùng với đó, những nghề khác ăn theo như thuộc da trâu bò, sản xuất nguyên liệu sừng thô, hoặc các kênh thương lái được hình thành, tạo nên một dòng chảy thương mại cạnh tranh khó giám sát, nếu không có một tổ chức đứng ra tạo dựng một quy chế và kiểm chứng sát sao. Bởi không ít gia đình vẫn còn làm nhỏ lẻ và phải đọ sức với sự cạnh tranh của thị trường là điều khá phức tạp, cho dù với chỉ một mặt hàng lược mà thôi...

Mỹ nghệ sừng.

Ký ức từ những chiếc răng lược

Thật may khi đến làng, tôi được gặp chủ nhân của cơ sở sản xuất lược sừng Mười Sử. Đó là Giám đốc Nguyễn Văn Sử. Ông đã cùng vợ lận đận vượt qua những khó nhọc trong nghề nghiệp để vượt lên trong cuộc mưu sinh và nuôi dưỡng nghề nghiệp của gia đình. Mười là tên vợ ông. Sự nghiệp hai mươi năm mỗi ngày một lớn mạnh. Xưởng sản xuất Mười Sử đã trở thành một thương hiệu của làng Thụy Ứng. Ông được coi là cỡ “đại gia” trong nghề làm đồ mỹ nghệ sừng ở đây. “Đại gia” với nghĩa là một ông chủ sống chết với nghề cho dù phải trải qua nhiều khốn khó, cam go. Cùng với đó, ông Sử còn là “đại gia” về sự phát triển mô hình sản xuất, với những ứng dụng công nghệ trong dây chuyền sản xuất. Hai con trai ông đã nối nghiệp và trở thành thế hệ thứ tư trong một gia đình làm nghề. Đáng chú ý hàng chục chủng loại hàng của Mười Sử được đưa đi bán khắp bàn dân thiên hạ, trong nhiều đại lý ở các địa phương. Vậy mà khi tôi đưa ra vấn đề hợp nhất những người làm nghề trong một tổ chức hội, ông bật cười lắc đầu. Ông cũng không hiểu mọi chuyện từ đâu nữa, cho dù chính ông cũng là người tham gia vận động và mong mỏi điều này từ lâu. Trong lòng ông tràn đầy những hình ảnh làm ăn phiêu dạt của gia đình mình một thời.

Ông nhớ lại, trước đó muốn làm lược sừng phải đối chọi với bao khó khăn về cơ chế, lẫn quan niệm xưa cũ. Bàn tay ông đã mòn vẹt theo năm tháng vì phải cưa cắt sừng theo phương thức làm ăn cổ lỗ. Bàn chân ông đã mệt mỏi trên những chặng đường bán hàng rong và trốn chui trốn lủi vì chuyện mua sừng trâu, bò lậu. Sau này ông còn phải vượt hàng trăm cây số đi tìm nguồn sừng ở những nẻo rừng núi xa xôi. Rồi còn chuyện nhịn đói, nhịn khát vì lỡ đường và phải chờ đợi mua sừng trâu... Ông trần tình đủ mọi chuyện để nói lên việc người làm nghề phải nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển. Đó là sự mong mỏi trong nhiều năm tháng, cho dù đến nay nhiều người làng đã trở thành những ông chủ và đã có những mối làm ăn rộng đường tích lũy. Ấy vậy mà vẫn thấy thiếu hụt hơi thở của cộng đồng và những sự ấm áp chia sẻ những khó khăn của thị trường.

Thợ trẻ làm lược.

Chính vì những sự thiếu hụt đó mà câu chuyện về môi trường là một gánh nặng của chính quyền làng xã. Bởi nếp sống “cha chung không ai khóc” và “việc ai nấy lo” chính là sự vô trách nhiệm đối với cộng đồng. Còn nữa, kèm theo đó việc giữ an toàn và sức khỏe của người lao động cũng là vấn để nảy sinh từ sự thả nổi của khâu quản lý. Đó là những vấn đề thuộc về tổ chức làng nghề và chỉ có những người làm nghề mới thực hiện được sâu sát và triệt để. Nếp sống văn hóa của làng nghề còn được thể hiện ở sự hợp tác kinh doanh, khắc phục những hệ lụy do chính mô hình lao động sản xuất trong cơ chế thị trường hiện nay. Ông Sử sôi nổi nói như muốn thuyết trình cho tôi nghe, nhưng thực ra ông bộc bạch nỗi lòng xao xuyến trong tâm can mình. Ông thường mơ về một phố nghề sầm uất một thuở Hà thành xưa. Và ông còn nhớ kỷ vật của mình khi ra chiến trường, đó là chiếc lược của mẹ ông gửi theo, như một lời nhắn nhủ rằng hãy vì nó mà chiến thắng trở về. Ông đã đem theo chiếc lược sừng qua những năm tháng của cuộc chiến tranh biên giới (1979-1983). Về làng ông tiếp tục làm nghề cha mẹ đã truyền lại. Mới đó mà đã hơn 30 năm, vượt qua những biến động về thị trường, Mười Sử đã trở thành một thương hiệu mang dấu ấn của Thụy Ứng. Nhìn những cửa hàng mọc lên dọc đường làng ai cũng có thể nhận ra nét văn hóa bền vững của Thăng Long xưa. Đó là hình ảnh lưu dấu một thời vàng son của con phố nằm trên sông Tô Lịch xưa - phố Hàng Lược cổ kính, cho dù giờ đây đã trở thành phố hoa mỗi độ xuân về. Nụ cười của ông Sử như một lời hẹn tôi trở lại, với sự đổi mới và nhiều điều bất ngờ từ ngôi làng xinh đẹp này.

Nỗi nhớ lược ngà

Không ngờ khi chia tay, những câu thơ bâng khuâng nỗi niềm tâm sự trong bài Lược cài tóc mây lại hiện lên như khúc ca lãng mạn nhất về hình ảnh chiếc lược sừng. Cùng với đó, hình ảnh những người chiến sĩ ra mặt trận, một thời thường ghi nhận thành quả chiến công của mình, bằng chính những chiếc lược được làm bằng mảnh cánh máy bay hay vỏ đạn pháo gửi về cho người ở hậu phương. Đó là lời hẹn hò, cũng là thể hiện quyết tâm chiến đấu và chiến thắng trở về. Hình ảnh chiếc lược trên chiến hào là tiếng nói của hòa bình xóa nhòa cuộc chiến tranh khốc liệt mà dân tộc ta đã trải qua. Không ít các chàng trai làng Thụy Ứng đã lên đường với những chiếc lược sừng trong ba lô như ông Sử. Họ yêu quê hương như vậy. Hẹn ngày về với chiếc lược sừng còn ám khói đạn bom và nguyện giữ lấy nghề. Đi tới đâu, người Thụy Ứng vẫn đau đáu, với việc giữ gìn và phát huy nghề cổ truyền một thuở thắm thiết, trong phồn hoa của 36 phố phường xưa. Đi tới đâu người Thụy Ứng vẫn hát rằng: “Hỡi cô yếm thắm kiêu sa. Lại đây anh gửi lược ngà cùng gương”; Rồi mong nhớ, rồi hẹn hò: “Cầm lược thì nhớ tới gương. Cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ nhau”... Vậy đó, chiếc lược là hình ảnh của làng Thụy Ứng mang hình múi bưởi, thơm hương khắp mọi miền đất nước.


Ghi chép của Duy Anh
Ý kiến của bạn