
Người lao động làm thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Luật Việc làm sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua. Theo đó, các quy định về giữ mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đóng gần nhất.
Hợp đồng từ 1 tháng trở lên phải đóng bảo hiểm thất nghiệp
Luật Việc làm sửa đổi đã bổ sung thêm đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp gồm người lao động có giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên (hiện nay từ 3 tháng trở lên).
Người làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất cũng là đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Việc bổ sung đối tượng này đảm bảo thống nhất với Luật Bảo hiểm xã hội 2024.
Ngoài ra, Luật cũng giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với đối tượng khác ngoài đối tượng quy định mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Như vậy, đối tượng tham gia sẽ được điều chỉnh theo đề xuất của Chính phủ, một số đối tượng như lái xe công nghệ, người làm việc online… cũng có thể sẽ là đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian tới.
Người lao động nghỉ việc được hưởng trợ cấp thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định của Bộ luật Lao động; người lao động nghỉ việc khi đủ điều kiện hưởng lương hưu. Quy định này không có gì thay đổi so với luật hiện hành.
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp giữ nguyên 60%
Luật Việc làm vừa được thông qua quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc nhưng tối đa không quá 05 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng.
Như vậy, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được giữ nguyên như quy định hiện nay. Trước đó, có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn. Tuy nhiên, Luật Việc làm sửa đổi vừa được thông qua vẫn giữ nguyên chứ không điều chỉnh tăng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã rà soát và thấy rằng vệc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (03 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.

Việc quy định thời gian hưởng (12 tháng) và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa nhằm thúc đẩy người lao động tìm kiếm việc làm, quay trở lại thị trường lao động. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Bộ luật Lao động (Điều 47 và Điều 48) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương) và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương) nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương.
Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 03 tháng tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành.
“Mức này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp cho tới khi tìm được việc làm mới; phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp,”Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận định.
Mặc dù không có điều chỉnh về mức hưởng nhưng thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp theo Luật Việc làm sửa đổi đã có sự điều chỉnh sớm hơn. Theo đó, thời điểm hưởng là ngày làm việc thứ 11 kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp thay vì ngày làm việc thứ 16 như quy định hiện nay.
Khuyến khích lao động quay trở lại tìm kiếm việc làm
Luật Việc làm mới quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa 12 tháng.
Quy định về số thời gian tối đa được hưởng bảo hiểm thất nghiệp này giống với quy định hiện hành mặc dù trước đó đã có ý kiến đề nghị sửa đổi theo hướng không giới hạn thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp là 12 tháng mà tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp cho đến khi người lao động không còn đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Lý giải việc giữ nguyên quy định được hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa 12 tháng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết bảo hiểm thất nghiệp là loại hình bảo hiểm ngắn hạn, tính chia sẻ rủi ro cao , việc chi trả trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro về việc làm nên cần quy định thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa nhằm bảo đảm khả năng chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ quỹ.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc quy định thời gian hưởng (12 tháng) và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa nhằm thúc đẩy người lao động tìm kiếm việc làm, quay trở lại thị trường lao động thay vì chờ hưởng hết bảo hiểm thất nghiệp./.