Lộc cộc guốc mộc làng Yên

30-10-2011 08:24 | Xã hội
google news

Theo tư liệu lịch sử còn lưu giữ tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam thì đôi guốc đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Việt chí, Giao Châu ký có ghi rằng Bà Triệu (ở thế kỷ III) đi guốc bằng ngà voi:

Cách trung tâm Hà Nội không xa, từ trên dải đê uốn lượn ôm dọc dài dòng chảy của con sông Hồng, làng Yên Xá nằm yên bình dưới đó với những cánh đồng lúa chạy dài xanh mướt. Là một làng ngoại thành Hà Nội thuộc xã ven đô Tân Triều( Thanh Trì), Yên Xá  nổi tiếng với rất nhiều nghề truyền thống như nghề dệt, nghề tơ sợi, trong đó nghề làm guốc mộc đã giúp Yên Xá trở thành thương hiệu làng nghề... một thời quá vãng...

Tìm lại một tiếng guốc!

Theo tư liệu lịch sử còn lưu giữ tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam thì đôi guốc đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Việt chí, Giao Châu ký có ghi rằng Bà Triệu (ở thế kỷ III) đi guốc bằng ngà voi: “Triệu Ẩu khi đi núi chân thường mang một loại guốc gọi là kim đề kịch” (Sách Giao Châu ký). Ở nông thôn, đôi guốc là người bạn đồng hành của họ mỗi khi ra đường bất kể đó là  phụ nữ hay đàn ông. Đặc biệt khi đi dự hội hè đình đám họ thường đi guốc gộc tre. Guốc đi trong nhà được người đàn ông đẽo bằng gỗ, có mũi uốn cong cong bảo vệ ngón chân, quai dọc thì tết bằng mây chứ không phải bằng quai da đóng ngang như guốc kiểu thời cận đại. Vào những năm 1950- 1960, người ta đem guốc mộc được sản xuất ở làng Đơ Đồng tức Yên Xá (xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội) về số nhà 12 phố Hàng Gà, hay về phố Bạch Mai ở Hà Nội để sơn, xì hoa, sau đó mới đem đi bán.

 Tạo phôi guốc. Ảnh: T. Anh

Chúng tôi đến làng Yên Xá trong tiết trời cuối thu dìu dịu. Nơi từng một thời được coi là “kinh đô guốc mộc” đến bây giờ nghề ấy chỉ còn lại trong trí nhớ mang máng của các cụ cao niên khiến nhiều người không khỏi ngơ ngác, nuối tiếc vì sự biến mất của làng nghề này. Cụ bà Lê Thị Chuẩn đã ở làng đến nay đã ba đời, khi chúng tôi hỏi về làng nghề, cụ bà trả lời với vẻ luyến tiếc: “Giờ những gia đình trong làng Yên Xá này còn giữ nghề làm guốc chỉ đếm được trên đầu ngón tay thôi. Thanh niên bây giờ phần lớn đi làm ngoài hoặc vào làm ở các khu công nghiệp. Chẳng mấy ai thiết tha với nghiệp guốc nữa”. Bà nói tiếp: “chẳng bù cho thời gian cách đây vài chục năm hầu như tất cả các gia đình trong ngôi làng Yên Xá nhỏ này đều làm guốc. Giai đoạn phát triển thịnh nhất của làng nghề là thời kì những năm 1980 đến 1985 với loại guốc 5 phân và 7 phân. Sản phẩm ngày xưa do làng làm ra thường đóng một triện hình con voi lên đôi guốc. Người buôn đến đặt và lấy hàng nhiều lắm xe ô tô đến chở hàng đỗ kín đường làng. Trước cổng mỗi gia đình, củi, gỗ phế phẩm từ việc làm guốc chất thành đống lớn. Bây giờ thì vắng teo.”

Quả thật bây giờ dù có đi sâu vào trong khu làng, căng tai cũng khó nghe được những tiếng lách cách, lộc cộc thứ âm thanh quen thuộc phát ra từ những dụng cụ chế tác guốc. Tìm đến với gia đình nghệ nhân Trương Công Đức, một trong số hiếm hoi những gia đình trong làng Yên Xá còn theo đuổi nghiệp guốc. Thật bất ngờ khi được biết, anh Đức chính là nghệ nhân bàn tay Bạc chế tác ra đôi guốc lớn nhất Việt Nam. Trong câu chuyện bên bàn chè trước hiên nhà nghệ nhân Trương Công Đức đã trải lòng cùng chúng tôi về nghiệp guốc ở làng. Gia đình anh đã có truyền thống ba đời làm nghề guốc. Từ đời ông truyền lại đến đời bố và anh lại kế thừa cái nghiệp của tổ tiên để lại. Anh nói: “Nghề này đòi hỏi phải khéo tay, có con mắt nghệ thuật tinh tế mới làm được chú ạ!” Các công đoạn để làm một đôi guốc không khó lắm nhưng cái khó là ở chỗ một tay thợ chế guốc khéo phải làm sao từ một thanh gỗ, thậm chí từ nhiều mẩu gỗ với kích cỡ khác nhau, phải “vuốt” ra một đôi guốc cân xứng, ưa mắt. Chúng tôi thường đùa làm nghề chế guốc mộc thì phải luôn “đẻ” ra các cặp “song sinh”. Guốc có chiếc trái, chiếc phải nhưng khi đã hợp lại thành đôi, guốc phải chiều được đôi chân người đi. Đôi guốc hay là người đi nó phải có được cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng và thoáng. Cấm kị nhất là đôi guốc làm ra khi đi đọng lại mồ hôi chân trên bề mặt guốc. Muốn vậy người thợ phải chọn lựa loại gỗ đã được ngâm, phơi kỹ càng. Cũng theo anh Đức trước đây nghề làm guốc được gia công chủ yếu bằng tay sau này phần lớn các công đoạn từ “pha gỗ”; “vuốt gỗ” được làm bằng máy. Riêng gia đình anh làm hơn 200 loại guốc khác nhau với đủ loại gỗ. Hiện tại gia đình anh làm cả loại guốc đẳng cấp chế tác từ gỗ pơ mu. Nhờ bàn tay khéo léo mỗi ngày anh làm được khoảng 30 đôi guốc, sau này chuyển sang dùng máy mỗi ngày anh làm ra khoảng 300 đôi. Đến bây giờ có thể nói gia đình anh giữ nghề và phát huy nghề một cách trọn vẹn và quy mô lớn nhất cả làng.

Guốc mộc đi đâu, về đâu?

Rời nhà nghệ nhân Trương Công Đức, chúng tôi tìm đến nhà anh Lê Hùng Cường cũng trong số ít còn chế tác guốc mộc. Tại xưởng sản xuất nhà anh Cường những đôi guốc chưa thành phẩm và gỗ nguyên liệu chất đầy hiên nhà. Anh Cường cho biết: “Không giống như nhiều gia đình trong làng Yên Xá có truyền thống làm nghề guốc mộc cha truyền con nối, nhà anh chưa làm nghề này bao giờ.  Tuy nhiên sống trên đất làng nghề khiến nghề guốc bén duyên  với mình.  Anh đã học hỏi những tiền bối trong làng, nhờ sự khéo léo, sáng tạo dần dà anh cũng trở thành một thợ làm guốc chuyên nghiệp.” Dẫn chúng tôi đi tham quan xưởng của mình, anh Cường kể: “Để làm ra đôi guốc phải mất rất nhiều công đoạn. Từ cây gỗ phải cưa khúc, bổ khổ sau đó cho vào máy xẻ, tiếp đến là công đoạn mài thô, sau khi mài thô ta sẽ định hình được hình dạng của chiếc guốc. Tiếp đến là công đoạn mài bóng, mài nhẵn và phun sơn”. Vừa chế tác chiếc guốc trên tay, anh vừa vui vẻ nói tiếp: “Sau khi sơn khô thì đóng đế và đóng quai, thế là chiếc guốc đã có thể đưa ra ngoài thị trường. Bây giờ các sản phẩm đều dùng sơn công nghiệp thay cho phương pháp sấy bằng diêm sinh ngày xưa”. Nguyên liệu đầu vào cũng được các nghệ nhân lựa chọn rất kỹ. Để làm ra đôi guốc bền, đẹp và nhẹ thì phải dùng nguyên liệu là những loại gỗ như xoan, thông, mít, bồ đề được nhập từ Hòa Bình, Thái Nguyên. Tuy vậy, anh cường không dấu sự ngậm ngùi: “Bây giờ người ta đi guốc nhựa, guốc xốp nhiều, làm guốc mộc thì không đủ trang trải cho cuộc sống. Mọi người đều phải chuyển sang làm nghề khác hoặc kinh doanh, buôn bán”.

Hiện nay còn một số ít hộ như gia đình anh Cường còn duy trì được nghề nhưng cũng phải vừa làm guốc mộc vừa làm guốc xốp. Làm guốc bằng xốp là chính vì hiệu quả kinh tế cao hơn, còn guốc mộc làm ra không tiêu thụ được. Bây giờ sản phẩm sản xuất từ Trung Quốc và những sản phẩm từ Sài Gòn bán ra thị trường nhiều, giá rẻ nên guốc mộc khó bán. “Do giá thành cao, mẫu mã của các sản phẩm nước ngoài đa dạng hơn, bên cạnh đó nguồn nguyên liệu để làm sản phẩm khan hiếm hơn. Giờ vẫn có người làm nhưng chỉ làm thủ công để dùng trong nhà”, anh Cường cho biết.

Khi được hỏi về việc khôi phục và định hướng phát triển làng nghề, trưởng thôn Yên Xá nói: “Rất muốn khôi phục làng nghề nhưng cũng khó lắm. Bây giờ chẳng mấy ai thiết tha với làm guốc bởi ngày công lao động thấp, sản phẩm làm ra bán rẻ, không ai mua. Bây giờ nhiều nhà chỉ đợi được đền bù đất nông nghiệp khi các khu công nghiệp ngày càng được mở rộng. Có được ít vốn họ tìm đến với việc buôn bán kinh doanh mặt hàng khác để sinh nhai.” Chúng tôi cảm thấy nao lòng trước viễn cảnh cả làng nghề rồi đây sẽ trở thành một công trường xây dựng với ùn ùn xe tải chở đất đá san lấp mặt bằng trên những cánh đồng lúa để dựng lên các khu công nghiệp. Và vô tình lấp luôn một làng nghề truyền thống. Tiếng lộc cộc guốc mộc chỉ còn là những âm thanh dĩ vãng một thời. 

  Phóng sự của Văn Hậu


Ý kiến của bạn