Liệt dây thần kinh mặt - cần phòng ngừa và can thiệp kịp thời

SKĐS - Liệt dây thần kinh mặt là liệt dây thần kinh số VII, gây ra các dấu hiệu liệt mặt tùy thuộc nguyên nhân. Dây thần kinh VII là dây hỗn hợp, có đầy đủ chức năng của một dây thần kinh ngoại vi: Vận động, cảm giác, thực vật, dinh dưỡng và phản xạ... nên khi liệt sẽ mất cả vận động, cảm giác và phản xạ.

Nguyên nhân gây liệt mặt

Liệt mặt nguyên phát (liệt mặt do lạnh hay liệt Bell): Do mạch nuôi của dây thần kinh bị co thắt gây ra thiếu máu cục bộ, phù và chẹn dây thần kinh trong ống Fallope. Các trường hợp liệt tự phát thường tiến triển cấp tính có liên quan tới gió lùa, lạnh, hay xảy ra vào ban đêm, nhất là vào mùa lạnh.

Liệt mặt thứ phát: Do tổn thương cầu não bởi các bệnh u thần kinh đệm, u lao, di căn ung thư hoặc đột quỵ vùng cầu não.

Liệt mặt có thể là dấu hiệu đầu tiên của viêm tủy xám, nhất là ở trẻ em; bệnh xơ não tủy rải rác; do tổn thương ở góc cầu tiểu não (do u dây thần kinh số VIII, u màng não, viêm màng nhện vùng góc cầu - tiểu não); tổn thương ở nền sọ (do u di căn ở nền sọ liệt mặt trong hội chứng Guillain - Garcin gây liệt các dây thần kinh sọ não một bên); chấn thương vỡ nền sọ; tổn thương trong xương đá (như zona hạch gối, chấn thương vỡ xương đá, ổ máu tụ ở hõm nhĩ, viêm tai xương chũm); tổn thương dây thần kinh số VII ngoài sọ (do chấn thương, u ở tuyến mang tai, bệnh hủi, bệnh uốn ván, hội chứng Guillain - Barré: Chiếm 69% trường hợp liệt mặt hai bên, viêm nhiều dây thần kinh sọ não, viêm nút quanh động mạch, bệnh Kahler, đái tháo đường tiềm tàng, liệt dây thần kinh số VII do thai nghén, liệt mặt di truyền).

Các biểu hiện liệt mặt

Theo nguyên nhân gây tổn thương, người ta phân biệt liệt mặt ngoại vi, liệt mặt trung ương và các định khu tổn thương dây thần kinh số VII như sau:

Dấu hiệu liệt mặt ngoại vi

Khi bệnh nhân không cử động: Hai bên mặt không cân đối, các cơ mặt bị kéo về bên lành, nửa mặt bên bệnh bất động và nhẽo do bị giảm trương lực cơ, trán mắt nếp nhăn, lông mày hơi sụp xuống, má hơi xệ, rãnh mũi - má mờ, góc mép miệng bị xệ xuống, tai hình như thấp xuống. Nếu ở giai đoạn muộn có nhiều trường hợp mặt bệnh nhân khi không cử động nhìn thấy mặt cân đối, chỉ khi cử động mới thấy mất cân đối.

Liệt dây thần kinh mặt Vị trí các huyệt vùng mặt điều trị liệt dây thần kinh số VII.

Khi cử động: Bên bệnh không nhăn trán được, mắt không nhắm kín (dấu hiệu hở mi  lagophthalmus), không làm được động tác nhe răng, phồng má, mím môi, huýt sáo...

Các dấu hiệu đặc trưng gồm:

Dấu hiệu Charles - Bell dương tính, là khi bệnh nhân nhắm mắt chủ động, mắt bên liệt nhắm không kín, nhãn cầu vận động lên trên và ra ngoài.

Dấu hiệu Negro: Khi bệnh nhân ngước mắt nhìn lên trên, đồng tử bên tổn thương ở vị trí cao hơn bên lành.

Dấu hiệu Souques: Trong khi nhắm hai mắt thì mắt bên bệnh nhắm không được chặt, lông mi của bên bệnh còn thò ra ngoài dài hơn bên lành.

Dấu hiệu Pierre Marie - Foix:  Giúp phát hiện liệt mặt nếu bệnh nhân hôn mê. Bác sĩ ấn mạnh vào hai góc hàm hoặc giật tóc mai của bệnh nhân, bệnh nhân sẽ nhăn mặt, khi đó nửa mặt bên lành sẽ co, còn bên liệt không có phản ứng gì.

Ngoài ra, liệt dây thần kinh VII ngoại vi có thể đi kèm theo liệt nửa người kiểu  trung ương bên đối diện như trong hội chứng Millard - Gubler hay hội chứng Foville cầu não dưới.

Liệt mặt trung ương do tổn thương đường vỏ nhân

Biểu hiện bệnh nhân chỉ liệt 1/4 dưới của mặt, không có dấu hiệu Charles - Bell. Dây thần kinh số VII rất dễ bị tổn thương, khi có các quá trình bệnh lý khu trú ở bán cầu đại não. Do nhân vận động dây thần kinh số VII có hai phần: Phần trên (phân bố vận động cho 1/4 trên của mặt cùng bên) được chi phối bởi cả hai bên bán cầu, còn phần dưới (phân bố vận động cho 1/4 dưới của mặt cùng bên) chỉ được chi phối bởi một bán cầu bên đối diện, cho nên khi có một bán cầu não bị tổn thương thì nửa dưới nhân vận động dây thần kinh số VII bên đối diện mất phân bố thần kinh, biểu hiện bằng liệt 1/4 dưới của mặt bên đối diện.

Như vậy, liệt dây thần kinh số VII là liệt 1/4 dưới của mặt, còn liệt dây VII ngoại vi là liệt nửa mặt (phải hoặc trái).

Các định khu tổn thương dây VII khác

- Liệt dây VII do tổn thương bán cầu não: Do vỏ não và đường vỏ - nhân dây VII bị tổn thương gây liệt dây VII trung ương cùng bên với liệt nửa người. Bệnh nhân bị liệt 1/4 dưới mặt bên đối diện với ổ tổn thương và liệt nửa người kiểu trung ương bên đối diện với ổ tổn thương.

- Tổn thương nhân dây VII ở cầu não: Gây liệt mặt ngoại vi. Hội chứng Millard - Gubler: Liệt dây VII ngoại vi bên tổn thương, liệt nửa người trung ương bên đối diện. Hội chứng Foville cầu não dưới: Bệnh nhân có dấu hiệu hai mắt nhìn sang bên đối diện với tổn thương. Liệt mặt ngoại vi bên tổn thương. Liệt nửa người bên đối diện (trừ mặt)...

Phương pháp điều trị

Điều trị nội khoa

Tùy theo nguyên nhân mà chọn dùng thuốc thích hợp. Các thuốc thường dùng như corticoide, axid acetyl salicylic, thuốc kháng sinh (khi có nhiễm khuẩn), các thuốc giãn mạch, thuốc kích thích tăng dẫn truyền (nivalin, methylcoban), thuốc tái tạo bao myelin (nucléo - CMP forte), sử dụng vitamin nhóm B liều cao, thuốc chống gốc tự do (vitamin E, eckhart Q10)...

Điện châm các huyệt: Bế phong, Dương bạch, Toản trúc, Tình minh, Ty trúc không, Đồng tử liêu, Thừa khớp, Nghinh hương, Giáp xa, Địa thương, Nhân trung, Thừa tương cùng bên liệt...

Toàn thân châm huyệt Hợp cốc, Phong bì bên đối diện. Cần tránh kích thích quá mức để gây co cứng cơ mặt. Khi mắt đã gần bình thường thì dừng điều trị kích thích. Khi thấy các dấu hiệu co cứng cần ngừng ngay liệu pháp điện châm, châm cứu, xoa bóp. Nếu bị liệt mặt co cứng dai dẳng điều trị không kết quả có thể tiêm cồn hủy dây thần kinh.

Điều trị ngoại khoa

Phẫu thuật để giải phóng dây thần kinh trong ống dây thần kinh mặt do viêm tai. Phẫu thuật được chỉ định trong các trường hợp liệt dây VII do viêm tai cấp hoặc mạn tính khi đã điều trị bảo tồn trong 4 - 5 tuần mà không có dấu hiệu phục hồi.

Cách phòng bệnh

Để phòng bệnh, cần điều trị dứt điểm các bệnh là nguyên nhân gây liệt mặt. Tránh gió lùa hay quạt lạnh trực tiếp vào vùng đầu mặt, nhất là ban đêm và mùa lạnh. Khi trời lạnh cần mặc ấm, đeo khẩu trang để tránh gió và lây nhiễm các bệnh do virus; tránh tiếp xúc đột ngột với nước lạnh...


ThS. Bùi Văn Quý
Ý kiến của bạn