Pơ thi là tiếng Jrai để chỉ một lễ mà người Kinh ta hay gọi là lễ bỏ mả. Đây là một lễ lớn trong mấy lễ trọng của người Tây Nguyên như mừng nhà rông mới, cơm mới và pơ thi.
Người Tây Nguyên quan niệm thế giới vạn vật hữu linh, nhất cử nhất động hoạt động của họ đều có thần linh tham gia chứng giám và điều khiển. Khi có một người Tây Nguyên chết đi thì đấy chưa phải là chết mà họ mới tạm rời cõi sống để chuẩn bị sang thế giới Atâu. Người chết được mang đi chôn (có thể địa táng hoặc thiên táng tùy dân tộc) nhưng có mấy điểm chung: thứ nhất là chôn chung, nhiều người trong gia đình được đặt chung một quan tài (việc này nay đã bỏ), thứ hai là chia của cải cho người chết.
Người sống có gì người chết được chia như thế, kể cả tivi, xe máy, nhiều nhất là chiêng, ghè rượu... nhưng để phân biệt thì những đồ vật chia này được làm hỏng đi, ghè thì đục thủng, chiêng thì đánh méo..., thứ ba là hàng ngày người sống vẫn ra mồ tiếp tế thức ăn cho người chết, họ bón cơm cho người chết thông qua một cái lỗ chừa lại trên quan tài, họ ngồi nói chuyện với người chết hàng tiếng đồng hồ, kể lể sự việc diễn ra trong ngày, trong làng có việc gì, ai dựng vợ gả chồng, ai say rượu đánh nhau, ai sinh con đẻ cái... như là người nằm dưới kia vẫn đang đồng hành cùng họ.
Cho đến một ngày, người sống đã chuẩn bị đủ bò, heo, gà, dê... họ quyết định làm lễ pơ thi, lần cuối cùng, vĩnh viễn chia tay, vĩnh viễn ai đi đằng nấy, không vướng bận chi nhau nữa.
Tượng mồ
Muốn làm lễ pơ thi, trước hết phải có tượng mồ. Mà không phải ai trong làng cũng có thể làm được tượng. Đồn rằng Yang nhập vào ai người đó mới làm được và cũng không phải lúc nào cũng có thể làm. Các giáo sư nổi tiếng như Từ Chi, Ngô Văn Doanh đã bỏ ra rất nhiều công sức, thời gian nghiên cứu tượng mồ mà vẫn chưa hết kinh ngạc. Nhiều họa sĩ điêu khắc học hành bài bản cũng ngả mũ chào thua trước những pho tượng bí ẩn kia, bởi nó được làm ra từ bàn tay của những người nông dân mù chữ, cả đời chưa ra khỏi làng. Công cụ lại chỉ có một cái rìu và một dao rựa. Thế mà tượng mồ lung linh sống động, mà mang trong nó cả nhân gian dằng dặc, mà toàn bộ thần thái đời sống, toàn bộ tình cảm của người sống hiển hiện trong đó.
Rìu và rựa, chỉ duy nhất hai thứ ấy mà từ cây gỗ khổng lồ, các pho tượng ra đời. Nhiều nhất là hình người ngồi ôm mặt trong dáng của bào thai, hình trai gái giao hoan, hình bộ phận sinh dục nam nữ, hình chim, khỉ... Ngày này sang tháng khác, bao giờ tượng mồ đủ thì lễ pơ thi mới bắt đầu.
Ngôi nhà mồ cũng là một đặc sắc kiến trúc Tây Nguyên. Với rất nhiều hoa văn tinh xảo từ trên nóc xuống mái đến hàng rào xung quanh, nó vừa ấm cúng vừa gợi lên sự xa ngái. Các tượng mồ được chôn xung quanh ngôi nhà mồ. Nên nhớ, điều trác tuyệt là ở chỗ tất cả những gì đẹp đẽ tinh xảo đến rợn ngợp kia, sau lễ bỏ mả là sẽ bỏ luôn, mặc nắng mưa, mặc mối mọt, người sống không bao giờ quay lại nữa, tác giả của nó, nghệ nhân siêu đẳng kia cũng không một chút luyến tiếc. Tài hoa của họ, người chết và Yang đã chứng kiến hôm bỏ mả rồi.
Các nghệ nhân ở làng M’rông Yô đang tập cho lễ pơ thi. |
Bỏ mả
Thường người ta làm vào ban đêm, kéo dài khoảng một tuần. Một đoàn vài chục người, mỗi người một ngọn đuốc cháy đùng đùng, sau lưng là những ống nứa ngất nghểu trông hùng vĩ như trong phim lịch sử. Ấy là họ đi gùi nước về để chế rượu cần. Thường thì gia chủ chỉ chuẩn bị bò, heo, gà, dê và gạo nấu cơm. Dân trong làng và làng lân cận sẽ gùi rượu nhà mình đến, hàng vài trăm ghè, có đám đến cả ngàn.
Người giết bò, người đập heo, người cắm rượu, người nấu cơm... rất nhiều nhóm quần tụ trong một khu đất không lớn lắm. Nếu có khách thì bao giờ sau khi được mời ăn, họ còn được chia phần mang về. Phần nghi lễ thì tất nhiên là có thầy cúng với các thủ tục rất kỹ như lấy máu sống vẩy lên cây nêu, lấy lục phủ ngũ tạng cúng Yang, lấy thịt ngon cúng người chết... và phần quan trọng là các dàn chiêng vào cuộc. Thường thì các làng cử đến lễ bỏ mả những chàng trai cô gái giỏi nhất, khỏe mạnh nhất, đẹp nhất, chiêng hay và xoang đẹp nhất để tham gia chia sẻ trong lễ bỏ mả.
Những đội chiêng này ban đầu chơi chiêng Atâu (chiêng dành cho đám ma), nhưng sau đấy, đêm về khuya, là chiêng ngẫu hứng. Họ đọ chiêng, so chiêng, nói chuyện bằng chiêng. Nhìn hai chàng trai cao lớn, khỏe mạnh đọ chiêng thì không một cô gái nào cầm lòng được. Mỗi chàng một chiêng, họ nhảy, họ múa, rất nhịp nhàng và ăn ý, họ vờn nhau ngoài xa, rồi xáp lại, hai chiếc chiêng úp vào nhau. Họ gõ chiêng ngẫu hứng nhưng vô cùng ăn ý. Các cô gái nín thở nghe và nhìn. Bởi những điều các chàng trai đang làm là nhằm vào họ...
Những đuôi khố kơ tếch phất phơ, những ngực nở bụng thon chắc nịch. Những loang loáng áo ló vai trần, những khép mở gấu váy lộ những bắp chân nâu mịn màng. Những đầu mày cuối mắt, những va chạm hờ hững, những bùng nổ, những khát khao, những rạo rực, những hông, những eo, những đường cong, những khối tròn... lúc này không còn liên quan gì đến tang ma nữa, nó là một lễ hội văn hóa. Những bài chiêng hay nhất được tấu lên, những điệu nhún (xoang) uyển chuyển nhất được phô ra, những gì hay nhất, đẹp nhất có thể đều được các chàng trai, cô gái phô diễn. Núi rừng rạo rực, đêm xôn xao, cây cối phập phồng...
Tất cả mọi người đều nhập vào như một nhu cầu tự thân, không có diễn viên, không có khán giả, tất cả là một khối quyến rũ và si mê, đắm say và nồng nhiệt. Ai say nằm lại, ai buồn ngủ thì chợp mắt, tỉnh dậy lại vào vòng. Thi thoảng một cặp nam nữ lại trốn khỏi cuộc vui... Tất nhiên là làng có những quy định rất khắt khe để không được đi quá giới hạn. Nhưng yêu nhau, thổ lộ với nhau, hò hẹn với nhau thì ai cấm được, và sang năm, biết đâu lại có những công dân ra đời từ cái đêm pơ thi huyền diệu ấy. Vậy thì nó còn là đêm của tình yêu, lễ của tình yêu và sự sống nữa.
Bản sắc hay hủ tục
Không ở đâu có một lễ hội mang tính chất nhân văn đến như thế. Bỏ mả, chia tay người chết bằng một lễ hội hoành tráng, bằng những phẩm vật cả vật chất và tinh thần vừa lộng lẫy vừa sang trọng, vừa tinh tế vừa huyền diệu. Những phẩm vật được dâng một cách thành kính, không vụ lợi.
Lễ này trở thành một hoạt động văn hóa tự thân huy động được hết khả năng sáng tạo vô tận và kỳ diệu của các nghệ nhân và toàn thể dân làng. Từ người tạc tượng đến người đánh chiêng, chỉnh chiêng, đến các cô gái xoang, đến cả những thày cúng hiểu sự đời và các bà cụ vừa khóc vừa kể rất hay.
Nhưng quả thực, với việc hàng mấy trăm con người tụ tập ăn uống ngày này qua ngày khác ở một khu đất hẹp, dưới trời nắng, dưới sương lạnh, thức ăn để qua nhiều ngày, nấu nướng mất vệ sinh, lấy nước suối pha rượu cần... thì dịch bệnh xảy ra là điều không tránh khỏi. Rất nhiều ổ dịch, đặc biệt là dịch tả đã xuất hiện từ những lễ pơ thi như thế này, thậm chí đã có người chết...
Pơ thi là một lễ hội văn hóa lành mạnh, nó phát huy được hết sức mạnh tinh thần diệu kỳ và còn nhiều bí ẩn của nhân dân nếu chúng ta có cách gì đó giúp đồng bào giữ vệ sinh hơn khi hành lễ. Ở đây, vai trò của bộ đội biên phòng là rất lớn. Một mặt hòa đồng vào với đồng bào trong các dịp lễ, mặt khác, thông qua sự hòa đồng ấy, hướng dẫn và giúp bà con giữ gìn vệ sinh. Pơ thi không phải hủ tục mà là một lễ hội mang đậm tính nhân văn và tài hoa của người Tây Nguyên.
Văn Công Hùng