1. Lao da - nguyên nhân do đâu?
Trực khuẩn lao do Robert Koch tìm ra năm 1892. Bình thường trực khuẩn chủ yếu gây bệnh lao phổi. Tuy nhiên, vi khuẩn lao có thể gây bệnh ở bất kỳ cơ quan bộ phận nào của cơ thể.
Lao da là từng là căn bệnh nan y ở thế kỷ XX nhất là khi xuất hiện của bệnh HIV, khiến các chủng lao da đa kháng thuốc xuất hiện, số lượng bệnh nhân điều trị ức chế miễn dịch ngày càng tăng. Hiện bệnh lao da đang có chiều hướng diễn biến tích cực do chất lượng cuộc sống được nâng cao, công tác vệ sinh được chú trọng, cũng như việc ra đời vaccine BCG.
Thông thường, lao da thường là dạng phát triển từ trực khuẩn được di chuyển từ các cơ quan nội tạng đến da, rất hiếm xâm nhập trực tiếp từ bên ngoài. Nói cách khác, lao da nguyên phát là rất hiếm, thường là biến thể từ nhiều loại lao khác, như lao phổi, lao hạch… Một số con đường lây truyền của vi khuẩn lao đến da như đường máu, đường lympho.
Lao da được xếp vào nhóm bệnh da hiếm gặp. Ước tính lao da chiếm khoảng 1% tất cả các loại lao. Lao da có thể kèm theo lao ở các cơ quan khác như lao phổi (25-30% các trường hợp), hoặc lao ruột, sinh dục,…
Trực khuẩn lao có thể trực tiếp đến da từ cơ quan nội tạng hoặc hiếm hơn là từ bên ngoài.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổn thương lao da do độc lực của trực khuẩn, số lượng của trực khuẩn, sức đề kháng của người bệnh (đa số những người bị bệnh lao da thể hiện dị ứng với tuberculin hoặc BCG). Người nghiện rượu, dinh dưỡng kém, mắc các bệnh mạn tính hoặc giảm miễn dịch làm cho bệnh trầm trọng hơn.
2. Dấu hiệu nhận biết lao da
Do trực khuẩn lao xâm nhập trực tiếp vào da lần đầu ở những người bệnh chưa có đáp ứng miễn dịch. Nên bệnh thường gặp ở trẻ em. Thời gian ủ bệnh khoảng 15 - 20 ngày.
Thương tổn thường ở vùng sang chấn với các biểu hiện là vết loét không đau, kích thước khoảng 0,5 cm ở tại nơi vi khuẩn thâm nhập vào cơ thể, sau đó lan rộng vài cm, bờ không đều, hàm ếch, đáy không cứng, màu đỏ nhạt, mùi hôi, đôi khi có vảy. Dần dần, đáy vết loét thâm nhiễm và trở nên cứng. Trường hợp vi khuẩn thâm nhập sâu có thể gây áp xe.
Ở niêm mạc thường là các vết trợt, màu hồng, phù nề, không đau. Hạch vùng tương ứng phát triển tạo thành phức hợp lao nguyên phát. Lúc đầu hạch cứng, sau đó mềm loét, chảy dịch chứa nhiều vi khuẩn. Tiến triển nhiều tháng và có thể khỏi. Một số trường hợp có thể chuyển thành lao thông thường hoặc hồng ban nút, lao kê, viêm màng não hay cốt tủy viêm.
3.Các hình thể lao da
Trên thực tế các nghiên cứu cho thấy các biểu hiện lâm sàng của bệnh lao da rất đa dạng như nốt sần, sần viêm, loét da mãn tính… cùng các tổn thương khác. Các biến thể của bệnh lao da được phân loại tùy thuộc vào số lượng vi khuẩn trên da, chủ yếu gồm các loại như:
- Tuberculosis Verrucosa Cutis với đặc điểm tăng trưởng dạng mụn cóc ở đầu gối, bàn tay, khuỷu tay, bàn chân và mông.
- Lupus Vulgaris, đây là dạng tiến triển và tồn tại dai dẳng của lao da, biểu hiện bằng nốt sần thường nhỏ, màu nâu đỏ, tồn tại trong nhiều năm, không tự biến mất, có khả năng biến dạng, loét và đôi khi dẫn đến ung thư da.
- Dạng lao da xơ cứng, do vi khuẩn lao trực tiếp xâm nhiễm vào các hạch bạch huyết, khớp hoặc xương, thường có liên quan đến bệnh lao phổi, không đau nhưng có thể gây loét da dạng hạt.
- Ngoài ra còn có lao da Miliary Tuberculosis, biến thể từ nhiễm trùng từ lao phổi hay các cơ quan và mô khác qua đường máu. Bệnh nhân Miliary TB thường bị suy giảm hệ miễn dịch như HIV/AIDS, ung thư, tiểu đường…
- Lupus lao phẳng
- Lupus lao vẩy nến
- Lupus lao loét…
3.1. Lupus lao:
Là thể lao da thường gặp nhất (50-70%), tiến triển dai dẳng, điều trị lâu dài, có thể 10 đến 20 năm. Trẻ em hay bị hơn người lớn.
Do sự lây truyền và phản ứng từ ổ vi khuẩn hoạt tính hay tiềm tàng của các nội tạng trong cơ thể hoặc sự tái hoạt hóa từ ổ vi khuẩn tiềm tàng trong da. Lâm sàng thương tổn là củ lao màu vàng đỏ, kích thước bằng đầu ghim hay hạt đậu, bóng, ấn kính củ lao xẹp xuống, nhìn qua kính củ lao trong suốt màu vàng nâu, châm kim vào củ lao dễ dàng và có cảm giác như châm kim vào bơ.
Các củ lao tập trung thành đám lan rộng ra xung quanh, có thể có loét ở giữa, có bờ nối cao trên mặt da không đồng đều, khúc khuỷu. Sau một thời gian tiến triển, vết loét có thể lành sẹo nhăn nhúm, co kéo, trên có những cầu da. Trên các tổn thương sẹo lâu ngày có khi lại xuất hiện các củ lao mới. Vị trí thường ở mặt, môi trên, có thể gặp ở tứ chi, mông, rất hiếm khi ở đầu. Nếu gặp ở bộ phận sinh dục hoặc hậu môn thì thường từ lao ruột lan ra.
3.2. Lao cóc:
Bệnh gặp ở hai giới, nam mắc nhiều hơn nữ, vị trí chủ yếu ở các chi như mu bàn tay, các ngón tay, mu bàn chân. Có thể kết hợp với lao ở các bộ phận khác như lao phổi, ruột, hay lao xương. Bệnh tiến triển lâu năm, lan ra xung quanh và để lại sẹo.
Do trực khuẩn vào da qua tiếp xúc trực tiếp hay tai nạn nghề nghiệp thường gặp ở bác sĩ thú y..., đôi khi do tự lây truyền ở những người bệnh bị lao.
Biểu hiện lâm sàng thường thấy là tổn thương là những mảng sùi, lúc đầu là sẩn màu đỏ nhạt, cứng, ấn kính không xẹp, các sẩn lớn dần, không tạo thành mảng, giữa thương tổn dày sừng, sau đó sùi lên nứt nẻ, có thể có mủ. Xung quanh có một vùng thâm nhiễm màu tím thẫm, trên có vảy da lẫn vảy tiết, ngoài cùng có một vùng xung huyết màu đỏ.
3.3. Loét lao:
Do lây nhiễm trực khuẩn lao từ ổ lao trong cơ thể như lao phổi, lao ruột hay lao đường tiết niệu. Các biểu hiện của loét da là thương tổn thường ở các hốc tự nhiên như miệng, hậu môn, sinh dục. Vết loét màu đỏ, thâm nhiễm, kích thước từ 1-2 cm, bờ nham nhở, không đều, đau, không có xu hướng lành.
3.4. Lao tầng:
Đây là loại hình thái lao thường gặp ở trẻ em hoặc người nhiều tuổi. Các biểu hiện tổn thương thường xuất hiện ở vùng cổ dưới hàm và vùng trên xương đòn. Biểu hiện đầu tiên là các nốt chắc dưới da, giới hạn rõ, di động dễ và thường không có triệu chứng gì đặc biệt. Tổn thương ngày càng to lên, mềm, tạo thành các ổ áp xe lạnh sau đó vỡ ra để lại các vết loét và rò, chảy dịch. Nhiều lỗ rò thông với nhau tạo thành đƣờng hầm dưới da. Sau nhiều năm tiến triển, tổn thương có thể lành để lại các vết sẹo co kéo, nhăn nhúm. Tổn thương loét và rò trên da cũng có thể xảy ra sau lao xương, lao hạch, lao khớp hoặc lao mào tinh hoàn.
3.5. Á lao sẩn hoại tử :
Á lao sẩn hoại tử là bệnh mạn tính, phát triển thành từng đợt, thường gặp ở người trẻ, nữ nhiều hơn nam, đặc tính chung là sẩn hoại tử ở giữa, khi lành để lại sẹo lõm. Tổn thương thường gặp là ở mặt duỗi của các chi, mông, có khi ở mặt, tai, da đầu, cá biệt có thể phát triển toàn thân.
Thương tổn là sẩn, khu trú ở trung bì, kích thước bằng hạt đậu hoặc lớn hơn, hình bán cầu, cứng, màu sắc lúc đầu đỏ nhạt, hoại tử ở giữa, lên sẹo. Mỗi thương tổn riêng lẻ tiến triển khoảng 2-3 tháng. Sau tái phát từng đợt, triệu chứng chức năng không có gì đặc biệt, toàn trạng ít bị ảnh hưởng.
3.6. Hồng ban rắn Bazin:
Thể này xuất hiện ở da, thường là ở cẳng chân, thương tổn thường là những cục nhỏ phát triển chậm, lúc đầu dưới da dần nổi cao lên mặt da, hình tròn, kích thước bằng hạt đậu, hoặc to hơn, màu đỏ tím, có thể đau khi sờ nắn . Các thương tổn lúc đầu cứng sau đó mềm ở giữa và loét, vết loét có bờ thẳng đứng, đáy mềm, màu vàng đỏ, xung quanh vết loét có viền đỏ tím, xơ cứng, giới hạn không rõ với da lành. Các cục này tồn tại lâu vài tháng, tiến triển chậm, khi lành có thể để lại sẹo teo.
4. Chẩn đoán lao da
Thông qua các biểu hiện lâm sàng các bác sĩ sẽ chẩn đoán qua soi trực tiếp, xét nghiệm vi khuẩn lao dương tính tại thương tổn… Tuy nhiên cũng cần phân biệt với ung thư tế bào đáy, nấm sâu, bệnh do trực khuẩn kháng cồn kháng toan không điển hình.
Với lupus lao ngoài chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng, mô bệnh học, nuôi cấy vi khuẩn, các xét nghiệm tìm ổ lao ở các cơ quan, nội tạng…. để chẩn đoán xác định và phân biệt giang mai thể củ, phong thể củ, nấm sâu, viêm mủ da hoại thư, ung thư da.
Tương tự với lao cóc ngoài khám lâm sàng các bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm trực khuẩn lao có thể dương tính, mô bệnh học, phản ứng Mantoux dương tính để xác định bệnh và chẩn đoán phân biệt với nấm sâu, hạt cơm thể khảm trai,…
Loét lao, lao tầng, á lao sẩn hoại tử … cũng tương tự chẩn đoán xác định: dựa vào đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm trực tiếp tìm vi khuẩn, tổ chức học và nuôi cấy vi khuẩn.
5. Lao da có chữa được không?
Nguyên tắc điều trị lao da là nâng cao thể trạng, chăm sóc tại chỗ, kháng sinh điều trị lao … theo đúng phác đồ của Bộ Y tế. Cũng như điều trị lao phổi, việc điều trị lao da cần phối hợp nhiều loại thuốc khác nhau (đa hóa trị liệu). Tùy theo từng trường hợp cụ thể để chỉ định các phác đồ phù hợp với từng cá thể.
Lưu ý, thời gian điều trị là 6 tháng, đối với những ngƣời bệnh mắc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, thời gian điều trị là 9 tháng. Trong quá trình điều trị cần theo dõi chức năng gan, thận, công thức máu và soi đáy mắt.
Đối với trường hợp lupus lao hoặc lao sùi, có thể áp dụng các biện pháp khác nhau để xóa bỏ thương tổn như đốt điện, laser CO2, hoặc áp nitơ lỏng. Đối với các trường hợp loét hoại tử thì làm sạch tổn thương đóng vai trò quan trọng, làm vết thương hàn gắn nhanh. Chính vì vậy người bệnh ngoài tuân thủ chỉ định của thầy thuốc cần phải có một chế độ ăn uống, dinh dưỡng tốt, nâng cao thể trạng.
Để điều trị hiệu quả, người bệnh ngoài tuân thủ chỉ định của thầy thuốc cần phải có một chế độ ăn uống, dinh dưỡng tốt, nâng cao thể trạng.
Mời xem video được quan tâm:
Khô mũi - Triệu chứng của COVID-19 hay bệnh nhiễm trùng đường hô hấp