Trải qua bao đời, đến nay đã được công nhận là 1 trong 56 dân tộc của Trung Quốc nhưng những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng vẫn hướng về nguồn cội, vẫn gìn giữ phong tục tập quán và hàng ngày sử dụng... ngôn ngữ Việt. Tại làng Việt ở Vạn Vĩ, nhiều người Hán về làm dâu, rể nơi đây cũng dần nói tiếng Việt thành thạo.
Làng Việt luôn hướng về cội nguồn
Theo lời chỉ dẫn của một người quen ở Móng Cái, sau khi làm thủ tục xuất cảnh qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái, chúng tôi đến trước cửa Bách Hội - trung tâm mua sắm của TP. Đông Hưng để đón xe buýt đi Vạn Vĩ. Thế nhưng, với vốn tiếng Trung chỉ có... 2 từ "nỉ hảo" học được nhờ xem phim Trung Quốc nên loay hoay mãi, chúng tôi mới may mắn gặp được một phụ nữ là người bản địa thường hay qua lại Việt Nam buôn bán biết tiếng Việt vẫy giúp chiếc xe buýt đông nghẹt người để đi Vạn Vĩ với giá vé 4 nhân dân tệ...
Bỏ lại TP. Đông Hưng phía sau, con đường về Vạn Vĩ được trải bê tông phẳng lì với hai bên đường là những làng mạc, đồng ruộng... Sau hơn nửa giờ đồng hồ qua quãng đường gần 40 km, chiếc xe buýt đến bến cuối cùng chính là thôn Vạn Vĩ. Đang lo lắng vì cả quãng đường dài đến đây đã phải "nói chuyện"... mỏi tay, giờ chưa biết xoay xở thế nào thì bỗng một phụ nữ bán hàng bên đường hỏi với ra bằng tiếng Việt: "Ở Việt Nam mới sang phải không?". Mừng ra mặt, chúng tôi lập tức lại gần những mong được giúp đỡ. Hỏi ra thì được biết đó là chị Ngô Thị Hà, người Kim Động, tỉnh Hưng Yên sang đây lấy chồng từ mười năm trước. Gặp người đồng hương, khi biết được ý định chúng tôi muốn tìm hiểu về đời sống người Việt nơi đây, chị Hà rất vui vẻ và nhiệt tình giúp đỡ.
Vạn Vĩ nằm sát biển, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tất cả du khách là tấm panô cỡ lớn với hình ảnh cô gái mặc... áo dài Việt Nam. Hai bên đường vào thôn là những dãy nhà 2, 3 tầng và ở giữa thôn là cái chợ bán đủ thứ nhu yếu phẩm phục vụ đời sống... Theo chị Hà, chúng tôi tìm đến gặp ông Cung Chấn Hưng, người của một trong những dòng họ từ Việt Nam sang sinh sống lâu năm nhất ở Vạn Vĩ. Ông Hưng cũng tỏ ra rất xúc động khi biết chúng tôi là người Việt. Sau một hồi trò chuyện, ông Hưng đưa chúng tôi đến thăm ngôi đình nằm giữa trung tâm đảo Vạn Vĩ có tên là Há đình. Nơi đây được coi là tụ điểm sinh hoạt văn hóa của người Kinh tộc trên 3 hòn đảo Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm. Trước cổng tam quan là tấm biển giới thiệu Há đình được viết bằng hai thứ tiếng Trung, Việt. Theo giới thiệu tóm tắt thì từ "Há" dịch sang tiếng Việt là "ca hát". Há Đình có nghĩa là hát đình, một lễ hội văn hoá truyền thống thường thấy của dân tộc Kinh. Lễ hội được bắt đầu từ mùng 9/6 đến 15/6 âm lịch, người Kinh tộc dù ở bất cứ xa gần đều trở về Há đình để đoàn viên sum họp chung vui ngày lễ đầy màu sắc văn hóa của dân tộc. Lịch sử lễ hội hát đình của dân tộc Kinh được hình thành từ lâu đời và được ghi lại bằng một truyền thuyết: Khi đó, trên mặt biển Đầu Dồi có một con rết thành tinh, mỗi năm lật đổ không biết bao thuyền bè, nuốt bao nhiêu ngư phủ. Chấn Hải Đại vương quyết chinh phục con rết tinh này. Đại vương biến thành một người ăn mày, cưỡi thuyền ra biển, khi đến gần cửa hang, rết tinh quen thói há mồm chực nuốt người, lập tức Đại vương cho lăn quả bí đỏ được nung nóng vào miệng rết tinh, rết tinh bị giết chết. Thân rết đứt thành ba khúc, khúc đầu nay gọi là đảo Mu Đầu, khúc giữa là đảo Sơn Tâm và khúc cuối là đảo Vạn Vĩ. Để tạ ơn đức Chấn Hải Đại vương, người Kinh trên ba hòn đảo lập Há đình thờ phụng...
Ông Hưng cho biết, theo tài liệu bằng chữ Nôm còn lưu giữ trong Há Đình cũng như gia phả của nhiều dòng họ ghi lại, từ 500 năm trước đây, tức vào năm Hồng Thuận cuối đời Hậu Lê có khoảng 100 người Việt của 12 dòng họ gồm: Tô, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng và Lương có gốc gác từ Đồ Sơn, Hải Phòng đã đến Tam Đảo khai hoang lập nghiệp các thôn Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm. Còn theo một nơi truyền thuyết thì do mải đuổi theo đàn cá song, cha ông ở Vạn Vĩ lưu lạc đến Tam Đảo, một hoang vắng chỉ toàn rừng rậm, hươu, vượn sinh sống. Điều này được khẳng định trong một số câu ca vẫn còn lưu lại: "Ngồi rỗi kể chuyện ngày xưa/Cha ông truyền lại là người Đồ Sơn" hay "Quê tôi là ở Đồ Sơn, theo đàn cá sú mới lên đầu dồi”... Đến nay, các dòng họ này đã có đến hơn 10 đời. Nguồn gốc của tên gọi Kinh tộc Tam đảo bắt nguồn từ 3 hòn đảo mà trước đây cha ông đến dựng nghiệp là Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm, sau đó phát triển thêm một số thôn khác...
Trải qua thời gian hàng trăm năm trên đất khách nhưng người dân Việt vẫn gìn giữ đủ những tập tục truyền thống của cha ông để lại, như ngày tết là ngày sum họp của gia đình, đến đầu năm con cháu đi tảo mộ... Một điều thật đáng trân trọng là trong những gia đình hoặc những người Việt ở Vạn Vĩ khi giao tiếp với nhau đều hoàn toàn bằng tiếng Việt. Nhiều người Hán khi lấy người Việt tại đây chỉ thời gian ngắn cũng nói được tiếng Việt thành thạo... Theo ông Hưng đi tham quan Vạn Vĩ, chúng tôi còn được biết không chỉ riêng Há đình, nơi đây chính quyền còn cho xây dựng nhiều nơi sinh hoạt văn hóa cho người Kinh mà trong đó có "Trung tâm Cơ địa và Bồi huấn văn hóa dân tộc Kinh". Tại đây, cứ vào sáng thứ 7 hàng tuần, bà con người Việt đến rất đông cùng nhau tổ chức hát đối, hát giao duyên theo đúng phong cách dân gian của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Không chỉ vậy, trẻ em ở Vạn Vĩ đến trường ngoài những giờ học theo chương trình giáo dục của Trung Quốc thì mỗi tuần đều có thêm giờ học tiếng Việt.
Trong thời gian ở Vạn Vĩ, chúng tôi đến gặp ông Tô Duy Phương, người đã từng sang Việt Nam làm lính tình nguyện thời chống Mỹ và sau đó có thời gian ở lại làm chuyên gia giúp Việt Nam. Trong căn phòng nhỏ với đầy ắp kỷ vật, ảnh từ thời ông còn chiến đấu và công tác ở Việt Nam, ông Phương xúc động cho hay: Với tấm lòng của người con đất Việt luôn hướng về nguồn cội, từ ngày nghỉ hưu, ông dành toàn bộ thời gian để thu thập tài liệu, gia phả, sử sách để ghi lại và in thành sách nói về lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc Kinh tại Tam đảo bằng chữ Nôm và tiếng Việt ngày nay. Rồi ông Phương cho chúng tôi xem một số cuốn sách ông đã sưu tầm và biên soạn trong đó có nhiều tác phẩm như: Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều, Phạm Công Cúc Hoa, Cung oán ngâm, sách kinh, các bài hát nhả tơ, chay đàn hay Truyền thuyết và thần tích 5 vị thánh thần của dân tộc, bản Vạn Vĩ sử giả ước, Sử ca dân tộc Kinh tập hợp, Tập sĩ ca và đặc biệt là cuốn Ca hát truyền thống dân tộc Kinh. Cùng với đó, ông Phương còn mở nhiều lớp dạy học tiếng Nôm cho người dân trong thôn... Ông Phương lý giải: "Phong tục, truyền thống và văn hóa của dân tộc Việt được truyền giữ bằng văn bản, thơ văn bằng tiếng Nôm rất nhiều. Vì thế, tôi muốn con cháu sau này cố học để gìn giữ truyền thống tổ tiên, hướng về cội nguồn".
Lập nghiệp trên đất khách
Trên đất Vạn Vĩ hiện có khoảng hơn 1 vạn người Kinh đang sinh sống. Từ bao đời nay, người dân chủ yếu làm nghề kéo lưới, thả lưới. Tuy nhiên, những năm gần đây, người dân ở Vạn Vĩ đã trở nên khá giả nhờ nuôi tôm, đánh bắt sứa, đóng tàu, mở nhà hàng và làm khách sạn. Ông Tô Xuân Pháp, chủ một xưởng đóng thuyền đi biển và được xem như một "đại gia" ở làng Vạn Vĩ biết chúng tôi từ Việt Nam sang đã tiếp chúng tôi bằng một... làn điệu quan họ. Ông Pháp vui vẻ tâm sự: “Đời sống của bà con người Kinh ở Vạn Vĩ ngày nay sung túc lắm rồi. Trước chỉ có người bên ngoài lấy vợ ở Vạn Vĩ thì nay người Kinh cũng đã lấy được vợ ngoài thôn". Ông Pháp cũng cho hay, mỗi tháng xưởng của ông đóng cả chục chiếc thuyền cung cấp cho người dân trong vùng, trừ chi phí, ông Pháp bỏ ra được 50 - 70 triệu đồng tiền Việt/tháng, giúp ổn định kinh tế gia đình và còn tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều người dân trong vùng... Ngoài xưởng đóng thuyền của ông Pháp, ở Vạn Vĩ có nhiều doanh nghiệp tư nhân, hàng chục xe ô tô, hàng trăm tàu thuyền cùng nhiều nhà hàng, khách sạn. Đặc biệt, ở Vạn Vĩ có bãi biển Kim Than thoai thoải và dài hút tầm mắt trước đây vốn chỉ để khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản thì ngày nay đã được người Kinh tại Tam đảo biến thành nguồn lợi du lịch. Suốt dọc bãi biển Kim Than đã có nhiều nhà hàng, khách sạn, quầy bán đồ lưu niệm mọc lên không chỉ đón khách trong nước mà còn thu hút được nhiều khách du lịch từ Việt Nam sang tham quan và du lịch. Không chỉ Vạn Vĩ, các thôn còn lại có người Việt sinh sống đều trở thành điểm du lịch văn hóa.
Rời Vạn Vĩ trong những cái bắt tay thật chặt, ông Tô Xuân Pháp lại cất lên một làn điệu quan họ trong bài "Người ơi, người ở đừng về" làm cho kẻ ở và người đi cứ lưu luyến không ai muốn rời xa... Vẫn biết là không thể ở mãi bên nhau nhưng tất cả chúng tôi đều tin rằng, những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng dù có đi đến bất cứ nơi đâu cũng luôn hướng về côi nguồn đất Việt thân yêu.
Bài và ảnh: Quỳnh Lam