Làng nghề gỗ "khóc ròng" vì dịch COVID-19
Theo thống kê, cả nước có hơn 300 làng nghề gỗ với hàng chục nghìn hộ gia đình và hàng trăm nghìn lao động tham gia sản xuất kinh doanh. Hiện, làng nghề là nguồn cung chủ yếu các sản phẩm gỗ cho thị trường nội địa. Các biện pháp giãn cách nhằm kiểm soát dịch COVID-19 trong thời gian gần đây có tác động rất lớn tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề.
Nghiên cứu của Tổ chức Forest Trends cho thấy, dịch COVID-19 khiến các làng nghề gỗ bị giảm 76% sản phẩm đầu ra, giảm 90% thu nhập, hàng nghìn lao động mất việc.
Khảo sát của nhóm nghiên cứu tại 6 làng nghề gỗ vùng Đồng bằng sông Hồng (Đồng Kỵ, Hữu Bằng, La Xuyên, Liên Hà, Thụy Lân và Vạn Điểm) cho thấy, tác động của dịch COVID-19 tới các hộ sản xuất rất lớn. Cụ thể, năng lực sản xuất của các hộ đã giảm 62%. Trong số 6 làng nghề khảo sát, công suất nơi cao nhất đạt 50% (làng gỗ Thụy Lân), nơi thấp nhất chỉ đạt 30% (làng gỗ Đồng Kỵ, làng gỗ Hữu Bằng).
Khoảng 46% số hộ tại các làng đã quay trở lại sản xuất, tuy nhiên các hoạt động này chỉ mang tính chất cầm chừng với mục đích "làm để giữ thợ" và "lấy công làm lãi" mà không có lợi nhuận. Làng có số hộ quay lại sản xuất cao nhất đạt 80% (làng gỗ La Xuyên) và làng thấp nhất chỉ đạt 30% (làng gỗ Đồng Kỵ).
Đầu ra sản phẩm của các hộ giảm khoảng 76%, thu nhập giảm gần 90%, nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất giảm 68% do không tiêu thụ được sản phẩm đầu ra. Ở một số nơi như Đồng Kỵ, Liên Hà, La Xuyên lượng sản phẩm bán ra giảm 80-90%, tương ứng với mức sụt giảm về nguồn thu của hộ.
Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu, hộ làng nghề hiện đang thiếu tính chính danh. Theo quy định hiện hành, hộ kinh doanh cá thể là các cá nhân, hoặc hộ gia đình được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh cá thể không có con dấu và chịu trách nhiệm với các hoạt động kinh doanh của mình.
Thực tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ tại các làng nghề có quy mô nhỏ lẻ, tự phát, tận dụng lao động của gia đình... Hầu hết các hộ không đăng ký thực hiện kinh doanh với cơ quan quản lý, không đăng ký thuế, không đóng thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng. Các giao dịch cũng hầu như không có chứng từ, hoặc hồ sơ giấy tờ để minh chứng cho tính hợp pháp của sản phẩm. Các hộ sản xuất chỉ đóng lệ phí môn bài, với mức đóng thấp nhất nhằm tiết kiệm chi phí, thậm chí, một số hộ không đóng.
Tìm lại cơ hội nhờ thị trường xuất khẩu
Trước mắt, cần có chính sách hỗ trợ cho nhóm làng nghề gỗ truyền thống khi phần lớn nhóm đối tượng này hiện chưa tiếp cận được các chính sách hỗ trợ dịch bệnh COVID-19 vì không đủ tiêu chí. Đề xuất này được đưa ra tại Hội thảo trực tuyến "Đại dịch COVID-19 và làng nghề gỗ" vừa được Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam tổ chức.
Dịch bệnh bùng phát phức tạp khiến thị trường tiêu thụ gỗ trong nước chững lại, thị trường lân cận như Trung Quốc cũng không có thương lái sang đặt hàng.
Điều này khiến cho hoạt động của các làng nghề truyền thống ngành gỗ gặp nhiều khó khăn như: Hàng hóa tồn nhiều, lượng vốn vay lớn, thiếu lao động trở lại làm việc, chi phí nguyên phụ liệu đầu vào tăng cao… Một số làng nghề hiện nay mới chỉ có 10% hộ gia đình quay trở lại sản xuất.
Mới đây, Chính phủ có ban hành một số chính sách hỗ trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, điển hình là Nghị quyết 68 và Nghị quyết 105.
Đối với Nghị quyết 68 hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động, phần lớn các hộ sản xuất làng nghề khó đáp ứng được tiêu chí, do trước nay họ đi thuê lao động thường sử dụng hợp đồng miệng, không có hợp đồng thuê lao động rõ ràng.
Còn Nghị quyết 105 hỗ trợ cho những hộ có đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế. Còn các hộ làng nghề được ngành gỗ khảo sát cho thấy hoạt động tự phát, nhỏ lẻ và không có đăng ký hoạt động, nên cũng không nằm trong nhóm đối tượng được hỗ trợ.
Theo các chuyên gia, cần có đánh giá toàn bộ tổng thể về hệ thống các làng nghề, để hỗ trợ, quản lý hiệu quả. Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho rằng, các hộ sản xuất tại làng nghề cần sớm hoàn thiện đăng ký kinh doanh và tham gia mở rộng hơn vào các hiệp hội và các chuỗi cung ứng sản xuất.
Bên cạnh sự hỗ trợ từ chính sách, các làng nghề gỗ cũng tự tìm đầu ra cho sản phẩm.
Bà Nguyễn Thị Bảy, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề gỗ Hữu Bằng cho biết, làng nghề này đang rất khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, thị trường trong nước hầu như không có đơn hàng sản xuất. Bà Nguyễn Thị Bảy mong muốn kết nối với các doanh nghiệp xuất khẩu để có thể gia công một phần sản phẩm theo hướng dẫn cụ thể của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp, hiệp hội lớn trong ngành gỗ cho rằng các làng nghề là một phần rất quan trọng của ngành gỗ. Đây là lực lượng để góp phần tạo nên văn hoá gỗ Việt. Trong bối cảnh đại dịch, việc phối hợp giữa các doanh nghiệp gỗ xuất khẩu với các làng nghề là hết sức cần thiết.
Hiện nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lớn khá khó khăn trong tập hợp lao động để hoàn thành các đơn hàng xuất khẩu vì tình hình dịch bệnh. Việc phối hợp với các làng nghề được xem là một hướng đi khả thi.
Việc phối hợp này không chỉ có tính chất thời vụ. Đây được đánh giá là cơ hội để các làng nghề gỗ tiếp cận với các quy mô kinh doanh, sản xuất gỗ lớn và có hệ thống chuyên nghiệp. Đó cũng là một bước đệm để các làng nghề có thể xây dựng được tính "chính danh" bằng hình thức hoạt động của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp…
Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam cho biết, Hiệp hội sẽ ghi nhận và tiếp thu các ý kiến để xây dựng các chính sách chung gắn kết các lực lượng sản xuất gỗ. Người tiêu dùng trong nước cần nâng cao nhận thức về dùng sản phẩm có xuất xứ rõ ràng. Người kinh doanh xuất khẩu gỗ và lực lượng sản xuất dồi dào từ các làng nghề gỗ cũng cần gắn kết chặt chẽ, từ đó tạo sự kết nối giữa gỗ nội địa và xuất khẩu, tăng nội lực sản xuất của ngành gỗ Việt Nam.
* Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ.