PGS.TS Phan Lê Thu Hằng - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Y tế) đã nhấn mạnh thông tin trên khi trình bày tham luận về yêu cầu, nội dung, lộ trình triển khai Nghị quyết số 262/2025/QH15 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác y tế năm 2025, nhiệm kỳ 2021-2025; định hướng công tác nhiệm kỳ 2026-2030 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 do Bộ Y tế tổ chức chiều 29/12.
Sự chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy tập trung khám, chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh
Theo PGS.TS Phan Lê Thu Hằng, Chương trình mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 có mục tiêu tổng quát được đánh giá là rất rộng, bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỷ lệ sinh, phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng giới tính khi sinh, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, xây dựng nước Việt Nam khỏe mạnh.

PGS.TS Phan Lê Thu Hằng - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính (Bộ Y tế) tham luận.
Với phạm vi thực hiện trên cả nước, khung thời gian thực hiện dài hạn (2026-2035), tổng vốn thực hiện chương trình lớn nhất từ trước tới nay của Ngành Y tế (88.635 tỷ trong giai đoạn 5 năm đầu tiên, 2026-2030), và tập trung ưu tiên những yếu tố cốt lõi, mang tính đòn bẩy của hệ thống y tế (y tế cơ sở, y tế dự phòng), Chương trình được kỳ vọng sẽ tạo chuyển biến mạnh mẽ đối với công tác chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển trong thời gian tới.-
PGS Hằng cho hay, Chương trình mục tiêu Quốc gia Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 được xây dựng với nhiều điểm mới, được đánh giá có sự khác biệt khá lớn so với Chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016-2020:
Thứ nhất, về nội hàm chương trình: Chương trình có nội hàm rộng hơn, theo đó, ưu tiên trước đây thường tập trung vào việc giải quyết một số vấn đề sức khỏe ưu tiên bằng các can thiệp y tế đơn thuần đã được mở rộng, hướng tới việc nâng cao sức khỏe, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân thông qua các can thiệp tích hợp.
Tương tự, ưu tiên đối với công tác dân số - phát triển được mở rộng, chú trọng tới việc nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với xu hướng già hóa dân số và dân số già.
Ngoài ra, nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế lần đầu tiên được coi là ưu tiên (và được xây dựng thành một Dự án thành phần) của một Chương trình Mục tiêu Quốc gia trong lĩnh vực y tế
Thứ hai, về tư duy và phương pháp tiếp cận đã thể hiện sự chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy tập trung khám bệnh, chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh, chú trọng bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe toàn diện, liên tục theo vòng đời.
Bên cạnh đó, phương pháp tiếp cận theo can thiệp dọc hướng tới từng vấn đề sức khỏe được thay bằng phương pháp tiếp cận chú trọng các thành tố cốt lõi của hệ thống y tế (như y tế cơ sở, y tế dự phòng) nhằm nâng cao năng lực tổng thể.
Thứ ba, về cấu trúc chương trình: Dù phạm vi của Chương trình mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển rộng hơn so với giai đoạn 2016-2020, cấu trúc Chương trình được xem là tối ưu hơn, chỉ bao gồm 5 dự án thành phần.
Thứ tư, về tổng nguồn vốn thực hiện chương trình: Tổng vốn thực hiện trong 5 năm đầu của Chương trình mục tiêu Quốc gia Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 là 88.635 tỷ đồng, cao hơn 4,5 lần tổng vốn thực hiện của Chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016-2020.
Thứ năm, về thời gian thực hiện chương trình: Chương trình có thời gian thực hiện dài hơn, lên tới 10 năm, phản ánh cam kết đầu tư dài hạn hơn để đáp ứng hiệu quả những yêu cầu về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển trong tình hình mới.
Thứ sáu, về mô thức quản trị chương trình: nguyên tắc phân cấp, phân quyền, nâng cao tính chủ động, linh hoạt của các địa phương được đặc biệt chú trọng, theo đó Quốc hội quyết định tổng mức dự toán cho chương trình, Thủ tướng Chính phủ giao dự toán cho các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương theo tổng vốn chương trình, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định phân bổ chi tiết, điều chỉnh kinh phí các nội dung hoạt động của chương trình trong tổng mức được giao.
3 trụ cột chính để triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển
Theo PGS Hằng, để có thể triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển nhanh nhất và có hiệu quả nhất trong bối cảnh có nhiều sự thay đổi lớn (thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, tổ chức lại mạng lưới y tế cơ sở, ưu tiên phân cấp, phân quyền…), trong thời gian tới cần tập trung ưu tiên nhiều giải pháp và nhiệm vụ khác nhau.
Cụ thể, về giải pháp cốt lõi, cần tập trung vào 3 trụ cột chính có thể kể đến là: Ban hành các hướng dẫn, cơ chế, chính sách về quản lý, chuyên môn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các hoạt động của Chương trình;
Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động nguồn lực, bố trí đủ và kịp thời vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương; huy động tối đa các nguồn vốn hợp pháp khác; bảo đảm đủ nguồn nhân lực tham gia thực hiện Chương trình;
Việc quản lý, tổ chức thực hiện Chương trình thực hiện theo quy định của pháp luật về cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư công, ngân sách nhà nước và pháp luật có liên quan.

Chương trình mục tiêu Quốc gia về Chăm sóc sức khỏe, Dân số và phát triển hướng tới việc nâng cao sức khỏe, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân thông qua các can thiệp tích hợp; ưu tiên công tác dân số - phát triển được mở rộng, chú trọng tới việc nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với xu hướng già hóa dân số và dân số già.
Về nhiệm vụ trọng tâm, PGS.TS Phan Lê Thu Hằng cho rằng các bộ, cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ trong xây dựng, sớm ban hành Báo cáo nghiên cứu khả thi Chương trình; Quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng từ ngân sách địa phương thực hiện Chương trình;
Quy định về quản lý, sử dụng, thanh toán, quyết toán kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình; Quy trình kiểm tra, giám sát, bộ chỉ tiêu của Chương trình;
Cùng đó là các hướng dẫn, cơ chế, chính sách về quản lý, chuyên môn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các hoạt động của Chương trình.
Bên cạnh đó, chính quyền các cấp quan tâm huy động nguồn lực, bố trí đủ nhân lực tham gia thực hiện Chương trình, phân công rõ trách nhiệm các cơ quan triển khai thực hiện Chương trình...
