Lác mắt có khó chữa?

10-10-2012 10:08 | Bệnh thường gặp
google news

Theo số liệu thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương, Việt Nam hiện có khoảng 2-3 triệu bệnh nhân lác (hay còn gọi là lé mắt), chiếm 2-4% dân số.

(SKDS) - Theo số liệu thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương, Việt Nam hiện có khoảng 2-3 triệu bệnh nhân lác (hay còn gọi là lé mắt), chiếm 2-4% dân số. Ðáng báo động nhất là hiện tượng lác ở trẻ em ngày càng nhiều và việc các gia đình đưa trẻ đến khám, chữa thường rất muộn.

Lác mắt có nguy hiểm?

Lác là một bệnh hay gặp với hai biểu hiện chính: rối loạn vận động nhãn cầu dẫn tới sự lệch trục nhãn cầu (gọi là lác); rối loạn chức năng của mắt: nhược thị, mất thị giác hai mắt.

Có tới 4% trẻ sinh ra đã bị lác - hiện tượng lệch trục nhãn cầu, biểu hiện bằng độ lác mắt khi quan sát. Bệnh lý này không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây ra nhược thị và rối loạn thị giác. Lác mắt có thể là lác trong (nhãn cầu lệch vào trong), lác ngoài (nhãn cầu bị lệch ra ngoài) hay lác đứng (nhãn cầu lệch lên trên hoặc xuống dưới). Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được làm rõ. Đôi khi tật khúc xạ như viễn thị gây ra lác trong. Thị lực kém ở một bên cũng có thể gây ra lác.

Khi mắt bị lác, hai mắt sẽ nhìn theo hai hướng khác nhau và sẽ nhìn thành hai hình. Lúc đó, não sẽ xóa bỏ hình ảnh của mắt lác, ức chế không cho mắt này nhìn và gây ra nhược thị. Vì vậy, người bệnh sẽ mất khả năng nhìn bằng hai mắt đồng thời không có được thị giác hai mắt.

Biểu hiện phức tạp của lác chính là sự lệch trục nhãn cầu: có những trường hợp bệnh nhân “lác ẩn” không lộ ra ngoài, phải qua thăm khám mới phát hiện ra. Các loại lác với biểu hiện đơn thuần như: lác trong, lác ngoài, lác đứng; phức tạp hơn là những trường hợp phối hợp cả lác ngang và lác đứng tạo ra độ lác chéo... Nguyên nhân của lác có thể do bẩm sinh, di truyền (các bác sĩ xác định có tới 20% nguyên nhân của bệnh lác là do di truyền). Ngoài ra, người bình thường cũng có thể bị lác sau khi bị sốt cao co giật, đó là do biến chứng.

 Lác không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây nhược thị và rối loạn thị giác.

Nhiều trường hợp gia đình phát hiện trẻ bị lác bẩm sinh thì cho rằng không cần điều trị, trẻ lớn lên sẽ tự khỏi, phần lớn các bậc phụ huynh không phát hiện ra những biểu hiện bất thường trong mắt của trẻ đặc biệt là đối với những trẻ không có biểu hiện rõ ràng. Đáng lý phải coi trọng phòng bệnh hơn chữa bệnh thì thói quen “có bệnh mới cầu bác sĩ” đã trở thành cố hữu của người Việt chúng ta.

Ở nước ngoài, trẻ bị lác dưới 5 tuổi đã được tiến hành phẫu thuật, vì thế tạo cơ hội tốt để trẻ phục hồi thị lực; còn ở nước ta, trẻ có bệnh thường được đưa vào viện giai đoạn 8-10 tuổi là rất muộn, đã bị nhược thị. Tại thời điểm đó tiến hành phẫu thuật thường chỉ có tác dụng thẩm mỹ, còn khả năng phục hồi đôi mắt khỏe mạnh là rất khó khăn.

Nhược thị do lác là tình trạng thị lực ở một hoặc cả hai mắt giảm dưới mức bình thường, làm cho khả năng nhìn của mắt kém và rất khó phục hồi được thị lực.

Ðiều trị lác như thế nào?

Khi mắt bị lác, hai mắt sẽ nhìn theo hai hướng khác nhau và sẽ nhìn thành hai hình. Lúc đó, não sẽ xóa bỏ hình ảnh của mắt lác, ức chế không cho mắt này nhìn và gây ra nhược thị.

Với những trường hợp lác do sự lệch trục nhãn cầu và nhược thị, điều cần cảnh báo là yếu tố rối loạn thị giác hai mắt, đây cũng là mục tiêu chính của việc điều trị. Đối với các chuyên gia về lác, đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho họ tiên lượng và quyết định việc điều trị nội khoa trước và sau phẫu thuật.
Thực tế, có đến 70% trẻ em lác mắt có kèm theo các tật về khúc xạ như cận thị hoặc viễn thị. Ngoài ra, là những dị tật khác như: rung nhãn cầu, đục thủy tinh thể, nhãn cầu nhỏ đôi khi cũng đi kèm bệnh lác. Tỉ lệ chữa được lác khá cao, tuy nhiên khả năng này còn phụ thuộc vào việc trẻ có được điều trị sớm hay không. Trước khi tiến hành điều trị cần phải khám lác cơ năng để có những đánh giá chuẩn về chức năng của mắt, đo độ lác chẩn đoán hình thái lác và các biểu hiện bất thường của nhãn cầu.
 
Khám mắt phải khám toàn diện, tuân thủ đúng chu trình khám và nhiều khi chu trình khám này kéo dài tới 2-3 tuần. Đối với những trường hợp lác có kèm theo các dị tật khác, nhiều trường hợp những dị tật phải được xử lý trước như bệnh nhân bị đục thủy tinh thể phải tiến hành mổ lấy thủy tinh đục, đặt IOL. Trường hợp bị tật khúc xạ thì phải đo khúc xạ và điều chỉnh kính... Đối với những ca lác đơn thuần phải có phác đồ điều trị riêng bao gồm ba bước phức hợp: chỉnh thị, phẫu thuật điều trị lệch trục nhãn cầu và điều trị phục hồi thị giác hai mắt.
 
Điều trị chỉnh thị được áp dụng cho tất cả những ca có nhược thị ở một hoặc hai mắt. Những chuyên gia hàng đầu về mắt thường tâm đắc với câu: “Trong cuộc chiến đấu với bệnh lác mắt, nếu thất bại trong cuộc chiến chống nhược thị thì coi như mất triển vọng chiến thắng”. Chính vì vậy mà việc tiến hành điều trị ở bước này là hết sức quan trọng.

Phương pháp cổ điển nhất nhưng vẫn có tác dụng tốt nhất tại thời điểm này là bịt hoàn toàn mắt lành từ 2-4 tuần, tạo điều kiện để tập trung mắt nhược thị tập luyện phục hồi thị lực. Đây là phương pháp đơn giản nhưng cần được theo dõi chặt chẽ thị lực mắt bịt vì có thể xảy ra tình trạng “nhược thị đảo ngược” và gây khó chịu về thẩm mỹ cho trẻ.

Bịt mắt lành cục bộ: đây là phương pháp được lựa chọn nhiều nhất vì dễ thích ứng với trẻ, là phương pháp để không cho mắt lành được nhìn xa hoặc không được nhìn gần hoặc luôn luôn trong tình trạng nhìn không rõ...

Ngoài hai phương pháp cổ điển trên, có thể áp dụng phương pháp phục thị tập luyện để phục hồi mối quan hệ tay mắt, kích thích tế bào vỏ não... Đây là phương pháp khó nhất, vì quy trình điều trị phức tạp và cần có sự hỗ trợ của máy móc kỹ thuật việc bắt một đứa trẻ phải tuân thủ nghiêm ngặt liệu pháp điều trị như vậy sẽ rất khó khăn và sẽ không có hiệu quả nếu không thực hiện tốt.

Điều trị phẫu thuật lệch trục nhãn cầu là yêu cầu bắt buộc (trừ hình thái lác điều tiết thuần túy đeo kính sẽ hết lác). Vấn đề đặt ra là nên mổ vào thời gian nào? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả chẩn đoán lác. Mổ sớm, khả năng phục hồi chức năng thị giác dễ hơn nhưng khó đánh giá chính xác độ lác. Mổ muộn thì chẩn đoán chính xác hơn và có thể phối hợp điều chỉnh quang, chỉnh thị trước và sau phẫu thuật, song khả năng phục hồi thị lực kém hơn.
 
Vậy khi nào tiến hành mổ là phù hợp? Các bác sĩ có thể tiến hành phẫu thuật khi đánh giá được độ lác, hình thái lác thị lực và thị giác của hai mắt. Thời điểm thuận lợi nhất là khi trẻ 4-5 tuổi. Cần nhấn mạnh việc chỉ định mổ một hay hai mắt là tùy thuộc vào độ lác, hình thái lác, chức năng cơ và một số yếu tố khác như: khả năng quy tụ, độ rộng hẹp của khe mi... Do vậy, trên thực tế có những bệnh nhân lác một mắt nhưng lại mổ hai mắt và ngược lại có trường hợp lác hai mắt song chỉ cần mổ có một mắt.

Phẫu thuật điều trị lệch trục nhãn cầu là khâu cuối cùng trong phức hợp điều trị bệnh lác. Đây là khâu đòi hỏi lòng kiên trì của cả thầy thuốc và người bệnh, khâu quyết định sự thành công của phức hợp điều trị lác. Sau phẫu thuật, người bệnh cần được kiểm tra lại thị lực, chức năng thị giác hai mắt và được hướng dẫn điều trị cho phù hợp với giai đoạn phục hồi. Bệnh nhân và gia đình người bệnh cần phải ghi nhớ, chỉ riêng bác sĩ chẩn đoán đúng, có hướng điều trị đúng là chưa đủ, bệnh nhân cần phối hợp với bác sĩ tuân thủ tốt quy trình điều trị, có như vậy mới hy vọng tìm lại cho người bị lác đôi mắt đẹp về thẩm mỹ và hoàn hảo về chức năng.

BS. Trần Thu Hà 


Ý kiến của bạn