(SKDS) - Theo số liệu thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương, Việt Nam hiện có khoảng 2-3 triệu bệnh nhân lác (hay còn gọi là lé mắt), chiếm 2-4% dân số. Ðáng báo động nhất là hiện tượng lác ở trẻ em ngày càng nhiều và việc các gia đình đưa trẻ đến khám, chữa thường rất muộn.
Lác mắt có nguy hiểm?
Lác là một bệnh hay gặp với hai biểu hiện chính: rối loạn vận động nhãn cầu dẫn tới sự lệch trục nhãn cầu (gọi là lác); rối loạn chức năng của mắt: nhược thị, mất thị giác hai mắt.
Có tới 4% trẻ sinh ra đã bị lác - hiện tượng lệch trục nhãn cầu, biểu hiện bằng độ lác mắt khi quan sát. Bệnh lý này không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây ra nhược thị và rối loạn thị giác. Lác mắt có thể là lác trong (nhãn cầu lệch vào trong), lác ngoài (nhãn cầu bị lệch ra ngoài) hay lác đứng (nhãn cầu lệch lên trên hoặc xuống dưới). Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được làm rõ. Đôi khi tật khúc xạ như viễn thị gây ra lác trong. Thị lực kém ở một bên cũng có thể gây ra lác.
Khi mắt bị lác, hai mắt sẽ nhìn theo hai hướng khác nhau và sẽ nhìn thành hai hình. Lúc đó, não sẽ xóa bỏ hình ảnh của mắt lác, ức chế không cho mắt này nhìn và gây ra nhược thị. Vì vậy, người bệnh sẽ mất khả năng nhìn bằng hai mắt đồng thời không có được thị giác hai mắt.
Biểu hiện phức tạp của lác chính là sự lệch trục nhãn cầu: có những trường hợp bệnh nhân “lác ẩn” không lộ ra ngoài, phải qua thăm khám mới phát hiện ra. Các loại lác với biểu hiện đơn thuần như: lác trong, lác ngoài, lác đứng; phức tạp hơn là những trường hợp phối hợp cả lác ngang và lác đứng tạo ra độ lác chéo... Nguyên nhân của lác có thể do bẩm sinh, di truyền (các bác sĩ xác định có tới 20% nguyên nhân của bệnh lác là do di truyền). Ngoài ra, người bình thường cũng có thể bị lác sau khi bị sốt cao co giật, đó là do biến chứng.
Lác không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây nhược thị và rối loạn thị giác. |
Nhiều trường hợp gia đình phát hiện trẻ bị lác bẩm sinh thì cho rằng không cần điều trị, trẻ lớn lên sẽ tự khỏi, phần lớn các bậc phụ huynh không phát hiện ra những biểu hiện bất thường trong mắt của trẻ đặc biệt là đối với những trẻ không có biểu hiện rõ ràng. Đáng lý phải coi trọng phòng bệnh hơn chữa bệnh thì thói quen “có bệnh mới cầu bác sĩ” đã trở thành cố hữu của người Việt chúng ta.
Ở nước ngoài, trẻ bị lác dưới 5 tuổi đã được tiến hành phẫu thuật, vì thế tạo cơ hội tốt để trẻ phục hồi thị lực; còn ở nước ta, trẻ có bệnh thường được đưa vào viện giai đoạn 8-10 tuổi là rất muộn, đã bị nhược thị. Tại thời điểm đó tiến hành phẫu thuật thường chỉ có tác dụng thẩm mỹ, còn khả năng phục hồi đôi mắt khỏe mạnh là rất khó khăn.
Nhược thị do lác là tình trạng thị lực ở một hoặc cả hai mắt giảm dưới mức bình thường, làm cho khả năng nhìn của mắt kém và rất khó phục hồi được thị lực.
Ðiều trị lác như thế nào?
Khi mắt bị lác, hai mắt sẽ nhìn theo hai hướng khác nhau và sẽ nhìn thành hai hình. Lúc đó, não sẽ xóa bỏ hình ảnh của mắt lác, ức chế không cho mắt này nhìn và gây ra nhược thị. |
Phương pháp cổ điển nhất nhưng vẫn có tác dụng tốt nhất tại thời điểm này là bịt hoàn toàn mắt lành từ 2-4 tuần, tạo điều kiện để tập trung mắt nhược thị tập luyện phục hồi thị lực. Đây là phương pháp đơn giản nhưng cần được theo dõi chặt chẽ thị lực mắt bịt vì có thể xảy ra tình trạng “nhược thị đảo ngược” và gây khó chịu về thẩm mỹ cho trẻ.
Bịt mắt lành cục bộ: đây là phương pháp được lựa chọn nhiều nhất vì dễ thích ứng với trẻ, là phương pháp để không cho mắt lành được nhìn xa hoặc không được nhìn gần hoặc luôn luôn trong tình trạng nhìn không rõ...
Ngoài hai phương pháp cổ điển trên, có thể áp dụng phương pháp phục thị tập luyện để phục hồi mối quan hệ tay mắt, kích thích tế bào vỏ não... Đây là phương pháp khó nhất, vì quy trình điều trị phức tạp và cần có sự hỗ trợ của máy móc kỹ thuật việc bắt một đứa trẻ phải tuân thủ nghiêm ngặt liệu pháp điều trị như vậy sẽ rất khó khăn và sẽ không có hiệu quả nếu không thực hiện tốt.
Phẫu thuật điều trị lệch trục nhãn cầu là khâu cuối cùng trong phức hợp điều trị bệnh lác. Đây là khâu đòi hỏi lòng kiên trì của cả thầy thuốc và người bệnh, khâu quyết định sự thành công của phức hợp điều trị lác. Sau phẫu thuật, người bệnh cần được kiểm tra lại thị lực, chức năng thị giác hai mắt và được hướng dẫn điều trị cho phù hợp với giai đoạn phục hồi. Bệnh nhân và gia đình người bệnh cần phải ghi nhớ, chỉ riêng bác sĩ chẩn đoán đúng, có hướng điều trị đúng là chưa đủ, bệnh nhân cần phối hợp với bác sĩ tuân thủ tốt quy trình điều trị, có như vậy mới hy vọng tìm lại cho người bị lác đôi mắt đẹp về thẩm mỹ và hoàn hảo về chức năng.
BS. Trần Thu Hà