Hằng năm, khi bầy én xôn xao chao liệng trên bầu trời, hoa pơ lang nở trắng cả núi rừng báo hiệu mùa xuân lại về trên miền sơn cước. Thời điểm này, ở quê tôi, bông cây đót trổ tím ở hai bên đường 604, nhiều nhất là khu vực Dốc Kiền”.
Ra Tết, khoảng rằm tháng Giêng hằng năm, dân làng tôi rủ nhau đi bứt bông đót để cân lại cho những cơ sở làm chổi đót. Công việc bứt bông đót tuy rất vất vả nhưng bù lại, thu nhập mỗi người khá cao so với làm nông, giúp ích họ rất nhiều những chi tiêu sau Tết. Tạm nghỉ ít lâu, qua tháng Ba (âm lịch) trở đi, dân làng lại rủ nhau đi bứt lá đót. Hằng năm cứ vào đầu tháng Ba, những bạn hàng mua lá đót từ phố lặn lội vô làng đặt tiền cọc để thu mua lá đót. Loại lá này mua về bỏ lại cho các cơ sở làm bánh tro để bán cúng ngày mùng 5 tháng 5 và các ngày vía khác như rằm, mùng một… "Cái nôi" làm bánh tro nhiều nhất và ngon nhất là vùng Hội An (Quảng Nam).
Quy cách của lá đót làm bánh tro phải có chiều ngang gần 10cm, chiều dài hơn một gang tay. Người dân hái về, xếp mỗi xấp là 40 lá, gấp đôi lại như gấp đôi cá chuồn để chiên, buộc dây rừng bên ngoài giữ lá khỏi bung, dùng rựa bén chặt bỏ phần so le. Sau khi phơi thật khô, dồn lá này vào một góc nhà, chờ người mua đến lấy, cứ 1.500 lá đã khô bán được 100.000 đồng. Già làng Nguyễn Văn Cần (68 tuổi), ở thôn Phú Túc, xã Hòa Phú (Hòa Vang - TP. Đà Nẵng) cho biết: Mùa hái lá đót cũng không kém phần sôi động. Thứ lá này, trước khi gói bánh tro, người ta ngâm nước cho mềm và ủi cho thẳng để dễ gói. Chỉ có lá đót gói bánh tro ăn vừa dẻo, vừa có mùi thơm đặc trưng của bánh tro và màu vàng hấp dẫn…Ở các khu vực miền núi cánh Tây Quảng Nam, như Đông Giang, Tây Giang… bà con dân tộc Cơ tu có tập quán làm bánh cuốt (còn gọi là bánh sừng trâu) trong những ngày Tết, lễ hội như lễ ăn mừng lúa mới (Cha ha rootơmêê), lễ ăn mừng được mùa (Bhuối Aví), lễ ăn thề kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cơ tu (Pơ Ngoót)… Khắp các thôn, bản (cr'noon, vêêl, bhươi) của đồng bào Cơ tu, hầu hết nhà nhà đều biết làm bánh cuốt (avị cuốt), là loại bánh có hình dạng gần giống như bánh ú ở vùng đồng bằng. Tùy theo cư dân ở vùng cao hay thấp mà loại bánh này có tên gọi khác nhau: c'cot, cuốt, acuốt. Lá gói bánh là lá chuối, lá dong và phổ biến nhất là lá đót (axở, atơớng) mọc rất nhiều ở rừng nên cũng có tên gọi là bánh đót. Các phụ nữ Cơ tu đều được người già bày gói bánh cuốt từ rất sớm. Nguyên liệu gói bánh sừng trâu là nếp thơm, nếp than do đồng bào sản xuất ra, gói một cách tinh tế, nghệ thuật bằng lá đót, có bề dài khoảng 12 - 15cm, ở giữa bánh phình ra, hai đầu nhọn và con lại như hai cái sừng trâu và buộc hai cái bánh vào với nhau thành một cặp. Tuy lá đót có diện tích hạn chế, nhưng khi đem gói bánh tro hoặc sừng trâu thì từ bánh tỏa ra hương vị hoang dã của núi rừng hòa quyện với hương nếp, cái hương vị của quê hương, ai đã một lần ăn đều khen ngon và không thể nào quên. Dường như khi gặp nếp, lá đót tiết ra một chất men gây cho bánh có hương vị đặc biệt, thơm ngon mà các lá khác không thể có được và không phải ngẫu nhiên mà người xưa chọn lá đót để gói bánh tro, bánh cuốt…
Người Cơ tu gói xong bánh (không có nhân) và tiếp tục ngâm nước, chừng nửa buổi mới nấu. Loại bánh này được giữ trong vài ngày, nếu để lâu bánh khô cứng lại, lúc này nướng bên bếp lửa, bánh trở nên thơm, dẻo và ngon hơn. Đặc biệt, bà con Cơ tu xem bánh sừng trâu là biểu tượng, sự kết tinh của âm dương, của trời đất, mưa nắng, sông suối, hồn của núi rừng và là loại bánh không thể thiếu được trên mâm cúng Yàng của tộc người Cơ tu sống trên dãy Trường Sơn.
Tiên Sa