Lâu nay, dư luận thường nói nhiều đến kỹ thuật di truyền, đặc biệt là di truyền con người, nhân bản vô tính, tế bào gốc và cả các sản phẩm chuyển gen... Bên cạnh nhưng ưu điểm, dư luận đang lo ngại mặt trái của các kỹ thuật này, đặc biệt là khi nó bị lợi dụng, vượt quá tầm kiểm soát của con người.
Kỹ thuật di truyền con người là gì?
Kỹ thuật di truyền con người (Genetic Engineering of Humans) hay kỹ thuật nhân bản bắt đầu trở nên sôi động từ khi các nhà khoa học giải mã xong hệ gen người và ra đời các tế bào gốc. Với tốc độ phát triển của ngành công nghiệp di truyền, người ta sợ rằng trong tương lai nó sẽ bị lợi dụng, làm thay đổi các vật liệu di truyền hay ADN trong cơ thể người, tạo ra những sản phẩm không đúng quy luật tự nhiên. Ví dụ như siêu nhân hay những đứa trẻ được “thiết kế trước”. Nghĩa là mục đích nghiên cứu này bị lợi dụng, ngược lại với mục tiêu chữa bệnh hay làm việc thiện, tạo ra những công cụ chống lại loài người.
Hiểm họa từ kỹ thuật GEH do sử dụng sai mục đích (ảnh minh họa).
Kỹ thuật di truyền con người hay kỹ thuật nhân bản đã từng được đề cập trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, gọi tắt là kỹ thuật GEH. Sử dụng một cơ cấu sinh vật dạng virut đưa vào trong một gen mới và sau đó đưa vào cơ thể người. Gen mới này thâm nhập các tế bào người và tự nó sao chép tạo ra một gen mới hoàn toàn ngay bên trong hệ gen con người. Các tác phẩm khoa học viễn tưởng thường mô tả kỹ thuật nói trên đã tạo ra những đột biến ác mộng. Có 2 sự lựa chọn về ứng dụng kỹ thuật nhân bản di truyền: Ứng dụng mang tính thể xác (Somatic application), nhắm vào các bộ phận hay các gen, không làm thay đổi trứng hoặc tinh trùng. Ứng dụng này mang tính tích cực, được dùng để điều trị những căn bệnh rối loạn mang tính di truyền, các gen khuyết tật được sửa chữa khuyết tật mà không ảnh hưởng đến hệ gen chung của người bệnh. Điều này có thể hiểu, nó không làm thay đổi hoặc truyền lại cho các thế hệ tương lai, thay đổi di truyền chỉ dừng lại ở mức chữa bệnh cho từng cá thể.
Ngược lại với ứng dụng mang tính thể xác, ứng dụng nhắm vào trứng và tinh trùng, gọi là ứng dụng dòng tinh trùng (Germline application), gọi tắt GA. Trong ứng dụng này, dòng tinh trùng cũng có thể được sử dụng để tạo ra các phôi giai đoạn đầu, hậu quả làm thay đổi gen ở mức tế bào và gây biến đổi hệ gen của cơ thể. Quá trình thay đổi này sẽ truyền lại mang tính kế thừa cho thế hệ tương lai. Nhiều người cho rằng nhân bản di truyền hệ gen người có thể dẫn đến sự chia rẽ loài, mất hoặc giảm khả năng giao phối với người không qua kỹ thuật HGE, hay người truyền thống và nguy hiểm hơn, giống người mới này sẽ tấn công lại người sinh học, không tự xếp mình ngang hàng với giống người hiện nay.
Tuy xếp chung với kỹ thuật nhân bản nhưng kỹ thuật nhân bản vô tính ADN người (Human DNA Cloning) lại có tới 3 dạng khác nhau, nhân bản ADN, nhân bản liệu pháp và nhân bản vô tính sinh sản. Sản phẩm cừu Dolly được các nhà khoa học Anh tạo ra là nhân bản vô tính. Có hai dòng bổ sung cho nhân bản vô tính: một là nhân bản ADN tức là nhân bản ADN để chuyển ADN thành sản phẩm tự sao chép bên trong các tế bào chủ ngoại lai và dạng kia là nhân bản phôi thai hay nhân bản liệu pháp. Nhân bản phôi thai cũng đang bị tranh cãi vì nó tạo ra duy nhất phôi thai người cho dù chỉ để nghiên cứu khoa học.
Những sản phẩm người đã bị thay đổi về mặt di truyền
Theo BBC, tháng 5/2001 các chuyên gia ở Viện Y học sinh sản St. Barnabas ở New Jersey Mỹ cho biết đã tạo được 30 bào thai bằng kỹ thuật GEH (15 ca sinh được thực hiện tại Mỹ) cho những phụ nữ vô sinh bằng cách sử dụng gen hiến tặng của nhóm phụ nữ khỏe mạnh. Hai đứa trẻ đã được thử nghiệm dương tính với một lượng nhỏ gen bổ sung mà không được kế thừa từ cha mẹ. Khi được 1 tuổi, qua thử nghiệm vật liệu di truyền cho thấy, chúng mang 2 ADN ty thể (Mitochondria DNA), các ty thể ADN được kế thừa từ người mẹ. Ngoài ra, qua thử nghiệm ADN của hai đứa trẻ này còn cho thấy chúng có hai mẹ, điều này xảy ra giống như chuyển giao ty thể có trong tự nhiên. Mặc dù thành công nhưng nghiên cứu nói trên đã bị cộng đồng khoa học phản đối, đặc biệt là việc bổ sung gen có thể làm thay đổi dòng tinh trùng của đứa trẻ trong tương lai. Điều này có nghĩa, thế hệ tương lai sẽ bị ảnh hưởng do pha trộn ADN ty thể, làm tăng gấp đôi vật liệu ADN và dẫn đến làm tăng bệnh tật. Hiện tượng trên được chuyên môn gọi là mitochondrial heteroplasmy, hay hiện tượng đồng giới ty thể, căn bệnh có thể phát sinh bất cứ lúc nào trong cuộc đời con người.
Sản phẩm kỹ thuật di truyền GEH.
Ngoài sản phẩm trên, năm 2000, các nhà khoa học Nhật Bản còn gieo trồng thành công tinh trùng trong phòng thí nghiệm dùng cho mục đích nhân bản liệu pháp, chữa bệnh vô sinh cho con người. Tháng 9/2001, nhóm chuyên gia ở ĐH Y khoa Sun Yat-Sen, Quảng Châu, Trung Quốc đã đưa ADN của một đứa trẻ vào trong một trứng thỏ rỗng sau đó cho phát triển thành phôi người. Mục đích là tạo ra các mô cấy ghép dùng cho liệu pháp chữa bệnh, các tế bào nhân bản sau đó được dùng để tạo các tế bào gốc.
Mối nguy hiểm của kỹ thuật GEH
Sở dĩ kỹ thuật này bị dư luận lên án là do mục đích ứng dụng không mang tính nhân đạo. Trong thực tế, kỹ thuật di truyền con người được xem là mang tính kỳ thị, nó đã từng được Đức quốc xã trước đây thí nghiệm trên những người Do Thái tại các trại tập trung hồi Chiến tranh thế giới thứ II. Đến đầu năm 90 thế kỷ trước, nhiều quốc gia đã lên tiếng phản đối dự án này, kể cả Đức - nơi tiên phong cho ra đời đạo luật có tên Đạo luật bảo vệ phôi thai (EPA). Nhiều quốc gia châu Âu cũng đã ban hành các đạo luật cấm nhân bản tương tự, đặc biệt là dùng kỹ thuật di truyền bằng mầm và nhân bản vô tính.
(Theo TSW, 1/2014)
Khắc Nam