Kiểm soát dịch HIV trong nhóm MSM là thách thức lớn nhất để chấm dứt dịch bệnh AIDS vào 2030

04-11-2025 15:26 | Y tế

SKĐS - Trong bối cảnh Việt Nam đẩy nhanh mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030, vai trò của các chuyên gia dịch tễ học trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Suốt gần bốn thập kỷ qua, PGS.TS Lê Minh Giang đã không ngừng dấn thân trên các “mặt trận” phòng, chống HIV/AIDS, lạm dụng chất và ứng phó với các dịch bệnh mới nổi.

Nhân dịp hướng tới Ngày Thế giới phòng, chống AIDS (1/12), phóng viên Báo Sức khỏe & Đời sống đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Lê Minh Giang – Viện trưởng Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng – để nhìn lại những chặng đường đầy thách thức, vai trò của ngành dịch tễ trong cuộc chiến chống HIV/AIDS, và những giải pháp cho giai đoạn tới.

Thách thức lớn nhất là kiểm soát dịch HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới

Phóng viên (PV): Thưa PGS.TS Lê Minh Giang, từ góc độ chuyên gia Dịch tễ học, ông có thể phân tích thách thức dịch tễ học lớn nhất mà Việt Nam đang phải đối diện trong lộ trình tiến tới mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030? Động lực nào đã thúc đẩy ông kiên trì dấn thân nghiên cứu hơn 30 năm trong lĩnh vực đầy nhạy cảm và khó khăn này?

PGS.TS Lê Minh Giang: Trước hết, xin trân trọng cảm ơn Báo Sức khỏe và Đời sống cùng quý độc giả quan tâm đến những chia sẻ của cá nhân tôi. Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch HIV/AIDS, ngay cả trong bối cảnh khó khăn của giai đoạn đại dịch COVID-19. Tỷ suất nhiễm mới HIV ước tính đã giảm mạnh, tương tự tỷ lệ tử vong cũng có xu hướng giảm. Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm và đặc biệt là nhóm tiêm chích ma túy.

Tuy nhiên, các kết quả giám sát dịch tễ và nghiên cứu cho thấy, dịch có xu hướng gia tăng ở nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) trong khoảng 10 năm qua. Một ước tính của chúng tôi cho thấy trong giai đoạn 2017 - 2019, tỷ suất nhiễm mới trong nhóm MSM ở thành phố Hà Nội tương đương thời kỳ bùng nổ dịch HIV trong nhóm này tại Bangkok, Thái Lan vào giai đoạn 2006 - 2012.

Kiểm soát dịch HIV trong nhóm MSM là thách thức lớn nhất để chấm dứt dịch bệnh AIDS vào 2030- Ảnh 1.

PGS.TS Lê Minh Giang (người đứng đầu bên phải) trong một khóa đào tạo "Những thay đổi chính sách HIV/AIDS toàn cầu trong ba thập kỷ và kinh nghiệm của Việt Nam".

Do đó, thách thức dịch tễ học lớn nhất với mục tiêu chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030 là phải kiểm soát tốt dịch HIV trong nhóm MSM và duy trì kiểm soát dịch trong các nhóm khác. Với những phát minh khoa học mới đây về thuốc tiêm dự phòng và điều trị HIV tác dụng kéo dài (như cabotegravir, lenacapavir), chúng ta hoàn toàn có quyền kỳ vọng vào mục tiêu đề ra.

Có nhiều yếu tố giúp tôi kiên trì theo đuổi con đường đã chọn. Khi bắt đầu học sau đại học tại Đại học Columbia, Hoa Kỳ vào cuối thập kỷ 1990, nhiều nghiên cứu của những người thầy và các đồng môn của tôi về đại dịch HIV/AIDS ở Hoa Kỳ, khiến tôi tò mò và khơi dậy mong muốn nghiên cứu về tình hình ở Việt Nam. Cho đến nay một số người thầy, bạn bè đồng môn của tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu về HIV/AIDS và họ tiếp tục truyền cảm hứng cho tôi.

Thứ hai, trong quá trình gần 30 năm qua, tôi được gặp rất nhiều nhà lãnh đạo, đồng nghiệp trong và ngoài nước, nhiều người trong đó là các nhà hoạt động xã hội, người quản lý chương trình và cả những người có cuộc sống bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Chính họ đem lại cho tôi nguồn động viên lớn để tiếp tục nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Và rất quan trọng là gia đình, những người thân yêu, luôn chia sẻ khó khăn cũng như thành công.

Hai mô hình can thiệp đột phá là mở rộng điều trị methadone và cung cấp bằng chứng thúc đẩy PrEP

PV: Trong nhiều năm gắn bó với công tác nghiên cứu, ông đã thực hiện nhiều công trình trọng điểm về các nhóm có nguy cơ cao. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về một ý tưởng hoặc mô hình can thiệp mà ông cho là đột phá nhất, đã được nhóm của ông triển khai thành công và mang lại những thay đổi thực tế nào cho cộng đồng?

PGS.TS Lê Minh Giang: Tôi muốn chia sẻ hai hoạt động có đóng góp đã được Bộ Y tế ghi nhận. Thứ nhất, từ năm 2012, Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu Lạm dụng chất - HIV thuộc Trường Đại học Y Hà Nội đã nhận nhiệm vụ đào tạo hàng ngàn cán bộ y tế, phục vụ mở rộng nhanh chóng chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế methadone ra toàn quốc.

Thứ hai, nghiên cứu thuần tập nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) ở Hà Nội giai đoạn 2017 - 2019 đã cung cấp bằng chứng về sự bùng nổ nhiễm HIV ở nhóm này, giúp Bộ Y tế có cơ sở quyết định triển khai mở rộng thuốc dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) ở Việt Nam. Kết quả này đã được ghi nhận trong Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế vào năm 2019.

Đặc biệt, từ tháng 5 năm 2019 đến nay, chúng tôi đã xây dựng phòng khám Sống Hạnh Phúc (SHP) tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trở thành cơ sở cung cấp PrEP lớn nhất của thành phố, với hơn 6.000 MSM được tiếp cận biện pháp dự phòng hiệu quả này.

Vượt qua rào cản kỳ thị và câu chuyện truyền cảm hứng

PV: Khi thực hiện nghiên cứu tại các nhóm đích dễ bị tổn thương, khó khăn, vất vả lớn nhất mà ông và đồng nghiệp phải đối mặt là gì? Trong hành trình đó, có khoảnh khắc hay kỷ niệm khó quên nào đã củng cố niềm tin, giúp ông tiếp tục sứ mệnh khoa học?

PGS.TS Lê Minh Giang: Khó khăn, thách thức thì nhiều nhưng niềm vui và sự thôi thúc cũng rất lớn. Tôi còn nhớ trong giai đoạn dịch COVID-19, khách hàng của phòng khám SHP gặp nhiều khó khăn khi đến nhận thuốc định kỳ. Chúng tôi đã phải thực hiện nhiều biện pháp thí điểm như chuyển thuốc đến tay người bệnh, tư vấn qua điện thoại, lấy và vận chuyển mẫu máu từ xa để đảm bảo khách hàng không bị gián đoạn điều trị. Một nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ có một phần ba số khách hàng bị gián đoạn nhận thuốc và chỉ một tỷ lệ rất nhỏ chuyển cơ sở khác. Đây là niềm vui lớn đối với những cán bộ y tế như chúng tôi.

Một thách thức khác đó là sự lo ngại bị kỳ thị, sợ hãi bị nhận diện của thành viên cộng đồng ngay cả khi đã đến phòng khám SHP. Có nhiều khách hàng vào phòng khám vẫn đeo khẩu trang. Chính những rào cản tiếp cận các biện pháp dự phòng hiệu quả, sẵn có của cộng đồng nguy cơ cao là điều thôi thúc tôi phải tiếp tục con đường đã chọn.

Nói về câu chuyện truyền cảm hứng, tôi muốn kể về hai thành viên cộng đồng và đã từng là nhân viên của tôi, đó là bạn Mai Quang Anh - Giám đốc Doanh nghiệp xã hội WeCare và bạn Vũ Thắng - Giám đốc Công ty Motive Social Agency. Cả hai đều là những thanh niên trẻ, đầy nhiệt huyết. Sau quá trình công tác, với những trăn trở và mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa cho cộng đồng, hai bạn đã quyết tâm thành lập tổ chức riêng của mình.

Hiện nay, cả WeCare và Motive Social Agency đều tạo công ăn việc làm ổn định cho các thành viên của cộng đồng, triển khai các hoạt động kết nối cộng đồng với dịch vụ y tế, truyền thông phòng chống rối loạn tâm thần và lạm dụng chất, và truyền thông thúc đẩy gắn kết công đồng. Sự thành công, dù còn nhỏ bé, và sự tâm huyết rất lớn lao của những người như họ là điều giúp tôi nỗ lực nhiều hơn nữa trong công việc giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng.

Cần lồng ghép can thiệp lạm dụng chất vào chương trình dự phòng và điều trị HIV

PV: Kinh nghiệm ứng phó với đại dịch COVID-19 và các nghiên cứu chuyên sâu về lạm dụng chất đã mang lại bài học quý giá nào cho công tác phòng chống và quản lý dịch HIV/AIDS? Theo ông, mối liên hệ nguy hiểm giữa lạm dụng chất và HIV cần được can thiệp tổng thể như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu?

PGS.TS Lê Minh Giang: Ở Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới, lạm dụng chất gây nghiện có mối quan hệ chặt chẽ với nguy cơ nhiễm HIV và ảnh hưởng đến quá trình điều trị.

Hiện nay, ma túy tổng hợp, đặc biệt là methamphetamine (ma túy đá) ngày càng phổ biến. Các nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm người bệnh điều trị methadone cho thấy tỷ lệ có sử dụng methamphetamine đồng thời ở mức độ cần can thiệp là khoảng 20%. Như vậy, đứng về góc độ dịch tễ học có thể khẳng định là các can thiệp phòng, chống HIV/AIDS không thể tách rời can thiệp lạm dụng chất gây nghiện.

Đứng về góc độ chương trình, việc lồng ghép can thiệp làm giảm tiến tới dừng lạm dụng chất vào các cơ sở dự phòng và điều trị HIV/AIDS là biện pháp chi phí thấp nhưng đem lại hiệu quả cao. Chúng tôi vừa hoàn thành một nghiên cứu hợp tác với Đại học bang California (UCLA) và Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh lồng ghép các biện pháp can thiệp hành vi xã hội vào quy trình điều trị methadone để làm giảm sử dụng methamphetamine. Hy vọng rằng khi các kết quả nghiên cứu được công bố trong thời gian tới sẽ góp phần thúc đẩy việc lồng ghép chặt chẽ hơn nữa ở Việt Nam.

Kiểm soát dịch HIV trong nhóm MSM là thách thức lớn nhất để chấm dứt dịch bệnh AIDS vào 2030- Ảnh 2.

PGS.TS Lê Minh Giang cùng đồng nghiệp Việt Nam và Lào khảo sát xây dựng chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện ở tỉnh Hủa Phăn, CHDCND Lào năm 2022.

PV: Với cương vị Viện trưởng, ông có định hướng và kỳ vọng gì đối với thế hệ chuyên gia Y học Dự phòng kế cận trong cuộc chiến chống HIV/AIDS, đặc biệt khi họ cần giải quyết các vấn đề mới như sức khỏe tình dục, phân biệt đối xử và giảm kỳ thị trong xã hội?

PGS.TS Lê Minh Giang: Một nhiệm vụ quan trọng của tôi là đào tạo thế hệ kế cận và tạo điều kiện để họ đứng vững, đi lâu và đi xa trên con đường khoa học. Trong hai năm 2024 và 2025, đã có ba giảng viên và nghiên cứu viên dưới sự hướng dẫn của tôi và các giáo sư ở Hoa Kỳ đã nhận được học bổng chương trình sau tiến sĩ của Cơ quan Các Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) tài trợ. Đây là chương trình học bổng K43 hỗ trợ 5 năm có tính cạnh tranh cao ở cấp độ toàn cầu. Ba bạn trẻ này sẽ tập trung nghiên cứu về dự phòng HIV ở nhóm MSM, can thiệp lạm dụng chất, sức khỏe tâm thần, trong đó các rào cản như kỳ thị, phân biệt đối xử là chủ đề xuyên suốt.

Tiềm năng đem kết quả nghiên cứu ở Việt Nam để tiến tới giải quyết các thách thức y tế công cộng toàn cầu là rất lớn. Tôi kỳ vọng rằng các nhà nghiên cứu trẻ sẽ luôn giữ vững niềm tin vào khoa học, vào cam kết của Chính phủ và toàn xã hội để dấn thân trong các lĩnh vực khó khăn.

Điều tôi muốn chia sẻ với các đồng nghiệp trẻ là hãy luôn giữ vững niềm tin vào những người xung quanh mình. Họ sẽ tạo cho các bạn cơ hội, nâng đỡ các bạn mỗi khi vấp ngã. Và điều còn lại là chính các bạn phải nỗ lực tận dụng những điều tuyệt vời đó để đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhiều người khác.

PV: Trân trọng cảm ơn PGS.TS Lê Minh Giang trả lời phỏng vấn của Báo Sức khỏe và Đời sống!

PrEP - Công cụ chấm dứt AIDS 2030

PrEP (Pre-Exposure Prophylaxis - Dự phòng trước phơi nhiễm) là việc sử dụng thuốc kháng virus (ARV) ở người chưa nhiễm HIV nhưng có nguy cơ lây nhiễm cao để ngăn chặn sự lây nhiễm virus. PrEP đã được chứng minh là một phương pháp dự phòng rất hiệu quả, đạt hiệu quả lên đến 99% trong việc ngăn ngừa lây nhiễm HIV qua đường tình dục nếu được sử dụng đúng và đủ theo chỉ định.

Tầm quan trọng trong bối cảnh Việt Nam:

1. Kiểm soát dịch ở nhóm MSM: PrEP là can thiệp thiết yếu để ngăn chặn tốc độ lây lan nhanh chóng của dịch HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) – thách thức dịch tễ học lớn nhất hiện nay.

2. Cải thiện tuân thủ: Các phát minh mới về PrEP tiêm tác dụng kéo dài (Long-Acting Injectables), như cabotegravir hay lenacapavir, hứa hẹn sẽ thay thế hình thức uống thuốc hàng ngày, giúp người dùng tuân thủ điều trị tốt hơn và giải quyết rào cản gây gián đoạn sử dụng.

Việc mở rộng chương trình PrEP tại Việt Nam, như trường hợp Phòng khám Sống Hạnh Phúc (SHP), đã tạo điều kiện cho hàng ngàn người có nguy cơ cao được bảo vệ, góp phần then chốt vào mục tiêu chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030.


Đỗ Vi (thực hiện)
Ý kiến của bạn