Nếu như ở nước ta, phim lịch sử thường bị định kiến coi là phim kỷ niệm, phim “cúng cụ” thì các phim lịch sử của Hollywood lại đều là những phim nghệ thuật, nhiều phim đoạt giải Oscar. Trong 10 năm qua, các nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam cũng đã có những nỗ lực lớn để làm phim kỷ niệm bằng tư duy làm phim nghệ thuật và ít nhiều đạt tới những thành công.
Từ phim kỷ niệm đến phim nghệ thuật
Có thể nói, những năm gần đây, cùng với việc thoát khỏi cách phản ánh lịch sử một cách sách vở, dễ dãi và có phần cứng nhắc, phim kỷ niệm những ngày lễ lớn đã và đang trở thành những tác phẩm nghệ thuật tâm huyết, hấp dẫn, xúc động lòng người, được công chúng đón nhận với một tâm thế mới. Phản ứng tích cực của khán giả trong các đợt phim kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên đã minh chứng cho điều đó.
Trong đợt phim kỷ niệm năm nay, bên cạnh những bộ phim tài liệu như Điện Biên quê tôi, Địa chấn ở Điện Biên Phủ, Hồi ức Điện Biên thì bộ phim nhựa Sống cùng lịch sử, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân, của Hãng phim Truyện Việt Nam mới sản xuất cũng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của công chúng, nhất là công chúng trẻ. Bộ phim kể về những trải nghiệm trong chuyến du lịch về Điện Biên tươi đẹp của một nhóm bạn, từ đó đồng hiện một Điện Biên khói lửa trong quá khứ. Được biết, đây là bộ phim được Nhà nước đầu tư 22 tỷ đồng (khoảng 1 triệu USD) và là một trong những bộ phim dã sử có kinh phí “khủng” nhất từ trước tới nay. Có thể nói, đây là một bộ phim có ý tưởng mới mẻ, sâu sắc, nội dung xúc động. Biên kịch và đạo diễn có cách nhìn khá độc đáo về một đề tài tưởng chừng đã quen thuộc. Từ đó, giúp giới trẻ thấm thía về truyền thống lịch sử của dân tộc, nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của bản thân ngày hôm nay.
Sự ra mắt ấn tượng của Sống cùng lịch sử không phải ngẫu nhiên mà là sự tiếp nối dòng chảy tư duy nghệ thuật của các nghệ six điện ảnh Hãng phim Truyện Việt Nam. 10 năm trước, khi bộ phim Ký ức Điện Biên của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn ra mắt, báo Tuổi trẻ ngày 5/5/2004 đã có bài đánh giá bộ phim là bước đầu tiên của điện ảnh Việt Nam bước ra khỏi lối mòn. Tiếp đó, hàng chục tờ báo lớn viết bài ca ngợi Ký ức Điện Biên là phim chiến tranh chân thực, hoành tráng, nhân văn và ấn tượng. Có được thành công đó là nhờ tư duy soi chiếu, mở rộng các điểm nhìn của các nghệ sĩ với các vấn đề hôm nay và quá khứ từ góc nhìn nhân văn, nghệ thuật. Mặt khác, sự đầu tư lớn đúng tầm của Nhà nước (bộ phim có kinh phí gần 1 triệu đô-la) đã tạo điều kiện sáng tạo tối đa cho nghệ sĩ. Bộ phim không chỉ được chiếu cho gần hai triệu khán giả trong nước dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, đoạt giải Cánh diều Vàng cho đạo diễn, được mời tham dự các liên hoan phim quốc tế Locarno, Singapore mà còn được 5 nước châu Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia và Brunei mua bản quyền từ 4 - 15 năm để chiếu rạp, chiếu TV và chiếu những nơi công cộng. Đây là phim đặt hàng về chiến tranh cách mạng đầu tiên được xuất khẩu đến nhiều nước. Đó là những thành công góp phần đưa hình ảnh con người Việt Nam dũng cảm, nhân hậu ra với khán giả thế giới mà không phải phim nghệ thuật nào cũng dễ dàng có được.
Khuất nẻo phim kỷ niệm
Ký ức Điện Biên và Sống cùng lịch sử có những góc nhìn nghệ thuật khác nhau, cách kể chuyện khác nhau, tìm tòi nghệ thuật khác nhau... nhưng đều đem tới cho người xem niềm tự hào và xúc động lớn lao đối với chiến thắng Điện Biên vĩ đại thông qua câu chuyện về cuộc chạy tiếp sức đi tới chiến thắng và đi tiếp sau chiến thắng của những con người thuộc các thế hệ khác nhau.
Để có những thước phim Ký ức Điện Biên hoành tráng, gây xúc động mạnh mẽ, Đỗ Minh Tuấn và đoàn làm phim đã “vắt kiệt” mình cho bộ phim vì tiến độ và thời gian phải hoàn thành. Mặc dù thời gian chỉ có 9 tháng từ khi duyệt kịch bản đến khi hoàn thành, nhưng đoàn phim đã làm hết mình, quyết thực hiện bằng được tất cả những ý đồ nghệ thuật cầu kỳ mình có thể nghĩ ra, từ việc quay 2 phút phim cảnh 300 bộ đội múa đương đại trên đồi mất nửa tháng trời đến việc kéo đoàn phim đi Pháp 20 ngày quay các cảnh tình bạn của các cựu chiến binh Điện Biên Phủ, hay sang Thái Lan 3 tuần làm kỹ xảo và hậu kỳ để tạo âm thanh vòm Dolby Digital gây ấn tượng cho các ảnh chiến tranh.
Còn với bộ phim Sống cùng lịch sử thì đoàn làm phim chỉ bấm máy trong vòng 2 tháng nhưng toàn bộ quá trình chuẩn bị, sản xuất đến hoàn thiện mất trọn 1 năm. Đạo diễn Thanh Vân tâm niệm: “Làm sao có cách truyền đạt mới trên nền lịch sử cũ. Bởi đề tài chiến tranh ở Điện Biên Phủ đã có nhiều bộ phim cả Pháp và Việt Nam sản xuất. Phải có cách tiếp cận một sự kiện lịch sử khác nhau. Làm sao để đưa Điện Biên Phủ tiếp cận người trẻ một cách gần gũi, cảm xúc”.
Ngày 24/4 vừa qua, bộ phim truyền hình 25 tập (45 phút/tập) Đường lên Điện Biên cũng đã ra mắt khán giả. Được biết, đây là dự án đặc biệt của Đài THVN nhân dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và được sắp xếp lịch phát sóng đặc biệt. Bộ phim tái hiện khúc bi ca của những người lính tham gia chiến trận khốc liệt tại Điện Biên Phủ với sự góp mặt của những gương mặt quen thuộc trên nền điện ảnh Việt Nam. Đạo diễn Bùi Tuấn Dũng đã lấy tình yêu làm sợi chỉ xuyên suốt, lồng ghép những câu chuyện tình yêu lãng mạn giữa bộ đội và nữ dân công, từ đó nêu bật tình yêu đất nước, tình bạn, tình đồng chí với hy vọng những điều này sẽ khiến cho bộ phim dễ đi vào lòng người hơn, bớt đi sự khô khan và tránh sa vào kiểu phim tư liệu lịch sử giản đơn.
Hạnh Dung