Không được tự ý dùng thuốc phá thai

12-12-2019 09:32 | Thông tin dược học
google news

SKĐS - Phương pháp phá thai dùng thuốc tuy có những ưu điểm nhưng cũng có thể gây biến chứng nguy hiểm. Do vậy, việc dùng thuốc phá thai phải có sự chỉ định của bác sĩ.

Kết thúc thai kỳ ngoài ý muốn, trong chuyên môn còn gọi là phá thai. Có 2 phương pháp phá thai được áp dụng phổ biến ở nước ta cũng như các nước trên thế giới hiện nay. Nếu kết thúc thai kỳ bằng thủ thuật còn gọi là phá thai ngoại khoa, tức là dùng dụng cụ đưa vào lòng tử cung để lấy thai ra ngoài như: nạo thai, hút thai, hút điều hòa kinh nguyệt. Nếu kết thúc thai kỳ bằng thuốc, còn gọi là phương pháp phá thai nội khoa, tức là chỉ dùng thuốc đưa vào cơ thể bằng đường uống, tiêm hay các đường dùng khác, với mục đích gây ra hiện tượng sảy thai.

Chỉ sử dụng thuốc khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa ẢNH MINH HỌA

Ở điều kiện sinh lý bình thường, progesterone là nội tiết sinh dục nữ, được buồng trứng tiết ra ngay sau rụng trứng, làm cho lớp nội mạc trong lòng tử cung phát triển, dày lên, với mục đích để cho noãn sau khi thụ tinh bám vào và phát triển trong buồng tử cung. Sau thụ thai, buồng trứng vẫn tiếp tục tiết progesterone cho tới khi bánh nhau đủ lớn để tiết ra và duy trì nội tiết, thay thế cho buồng trứng, thường ở vào khoảng tháng 3 của thai kỳ. Khi ta dùng thuốc có tính chất cạnh tranh với sự gắn kết của progesterone, dù progesterone của buồng trứng vẫn được tiết ra, nhưng không gắn kết được vào các cơ quan cần thiết, đặc biệt là nội mạc lòng tử cung và bánh nhau; hậu quả là bánh nhau sẽ thoái hóa từ từ và thai sẽ bị sảy do không được nuôi dưỡng. Thuốc nhóm này hiện đang sử dụng là mifepristone hay còn gọi là RU 486, dẫn chất của norethindrone, tác dụng cạnh tranh với progesteone, được phát minh năm 1986, với tên thương mại là Mifeprex, Mifestad 200… Đến năm 1989, thuốc được sử dụng rộng rãi ở Pháp.

Về chỉ định sử dụng của thuốc, đầu tiên được áp dụng cho thai dưới 7 tuần tuổi, hiện nay đã được nới rộng áp dụng với thai 9 tuần tuổi và đang có định hướng áp dụng cho thai 12 tuần tuổi, tức là khoảng 3 tháng đầu của thai kỳ. Dù ở tuổi thai nào, Bộ Y tế chỉ cho phép sử dụng thuốc tại các cơ sở y tế lớn, được đào tạo bài bản về sử dụng phương pháp trên. Trước khi cần chỉ định dùng thuốc, sản phụ cần nói rõ tiền sử bệnh tật, tuổi thai. Đây là những thông tin quan trọng, nhằm giúp bác sĩ có chẩn đoán chính xác và có quyết định trong điều trị. Khi sử dụng thuốc, sản phụ cũng được tư vấn kỹ, cần biết một số tác dụng phụ sau khi dùng thuốc như: ra máu, rỉ máu kéo dài, buồn nôn, nôn, thực chất đây là những hiện tượng thường có trong sảy thai tự nhiên; tuân thủ tái khám theo đúng hẹn và nhất là có kế hoạch ngừa thai hiệu quả sau đó, để tránh phải phá thai nhiều lần. Khi áp dụng phương pháp này, sản phụ không được dùng các thuốc như: phenitoin, phenobarbital, carbamazepine cũng không được dùng các kháng viêm không steroid, vì các thuốc này làm giảm tác dụng của của mifepristone. Ngoài việc sử dụng mifepristone, trong điều trị còn dùng thuốc thuộc nhóm prostaglandine có tác dụng khởi phát sự chuyển dạ tự nhiên, thuốc làm mềm cổ tử cung, gây ra cơn gò tử cung đưa đến sự tống xuất thai; có nhiều loại, thuốc thường dùng hiện nay là misoprostol với tên thương mại là Misoprostol Stada, Alsoben hay Cytotec…

Phương pháp chấm dứt thai kỳ bằng phương pháp nội khoa, tuyệt đối không dùng trong các trường hợp  sản phụ có rối loạn đông máu hay đang điều trị kháng đông, thai ngoài tử cung đã được xác định hay nghi ngờ, đang sử dụng dụng cụ tránh thai như đặt vòng còn trong lòng tử cung, thiếu máu nặng, sản phụ có tâm lý - tâm thần không ổn định, suy thượng thận mạn, sản phụ có vết sẹo cũ ở tử cung; tử cung dị dạng, dị ứng Misoprostol hay Prostaglandines khác, và tuyệt đối không được tự mua thuốc để uống.

Chấm dứt thai kỳ bằng phương pháp nội khoa, là một trong những tiến bộ của y học, có nhiều ưu điểm vì không phải can thiệp thủ thuật vào buồng tử cung như nạo - hút thai, cho nên ít dẫn đến các tai biến: nhiễm trùng, chảy máu tử cung, thủng tử cung, hay biến chứng vô sinh về sau. Phương pháp này gây sảy thai có tính chất nhẹ nhàng, ít gây ảnh hưởng đến tâm sinh lý nữ giới. Tuy nhiên, phương pháp có những biến chứng nhất định như: rong kinh - rong huyết, đau bụng nhiều trong quá trình tác dụng của phương pháp để tống xuất thai ra ngoài, sản phụ nôn nao, chuột rút, sốt, ớn lạnh, mệt, sảy không trọn, sảy thai lưu, thai tiếp tục phát triển… nên cần phải được thực hiện và theo dõi chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa. Tuyệt đối không được sử dụng phương pháp này khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.


BS.CKI.TRẦN QUỐC LONG
Ý kiến của bạn
Tags: