Năm vừa qua, cả khu chung cư cao tầng CT2 Ngô Thì Nhậm, quận Hà Ðông (Hà Nội), không ai không biết đến một cụ già mới từ quận Hai Bà Trưng dọn về, bởi cụ có nhiều điều đáng để lớp con cháu kính nể. Dẫu tuổi đã ngoài bát tuần vẫn hăng say hoạt động xã hội, trong các cuộc họp ở chi bộ, khối phố và ngay cả khi đi đâu thấy có những sự việc tiêu cực hoặc ngang trái, cụ đều có những góp ý chân tình, thẳng thắn. Hằng ngày cụ còn nêu gương cho lớp trẻ, kiên trì tập luyện để người già sống khỏe, sống vui, sống có ích. Người công dân đáng kính đó của Thủ đô là Phó giáo sư (PGS), Anh hùng Lao động Trần Tuấn Thanh...
Năm 1956, Trần Tuấn Thanh 23 tuổi, anh là lính biệt phái của D126, Bộ Tổng tham mưu vào học khóa 1 của Trường đại học Bách khoa, Hà Nội. Do thành tích học tập xuất sắc, anh được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Bộ môn Công nghệ chế tạo máy, Khoa Cơ khí, rồi làm Phó Chủ nhiệm bộ môn. Đáng lẽ ngày đó người kỹ sư cần cù, thông minh có hoài bão lớn, xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo ở thành phố Vinh, Nghệ An được cử đi nước ngoài đào tạo phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), thì đến phút chót bị hoãn lại. Bố mẹ anh thời kỳ cách mạng còn trứng nước, đã từng nuôi giấu một số chiến sĩ cách mạng. Vậy mà một người có trách nhiệm ở địa phương lúc đó vì động cơ cá nhân, thiếu trung thực đã xác nhận lý lịch cho anh không đúng. Tiếp đến lần sau, vẫn là nhận xét “xấu” về lý lịch của xã mà anh không thể đi nước ngoài làm nghiên cứu sinh. Năm 1969, anh được trường cử đi thực tập sinh ở nhà máy chế tạo máy tính nước cộng hòa Acmêni, thuộc Liên Xô cũ. Tại nước bạn, anh dồn mọi tâm sức vào việc học nâng cao trình độ cả về lý thuyết, thực hành. Anh còn dự một số chuyên đề nghiên cứu về cơ khí chính xác tại Đại học Bách khoa Êrêvan, ông Chủ nhiệm khoa của bạn muốn anh làm nghiên cứu sinh tại trường, song tiếc là khi anh viết thư về nước xin phép đã không có hồi âm. Hết hạn thực tập, năm 1972, kỹ sư Trần Tuấn Thanh trở về đúng vào lúc nhà trường nhận được Công văn số 1817 do Phó Thủ tướng Đỗ Mười ký, yêu cầu triển khai nghiên cứu và sản xuất một loại vật tư kỹ thuật quan trọng dùng phổ biến trong xe máy, là bộ đôi bơm cao áp, vòi phun (BCAVP) động cơ diesel.
PGS. Trần Tuấn Thanh đang giới thiệu công nghệ chế tạo bộ đôi bơm cao áp, vòi phun với Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đầu năm 1985).
Năm 1892, kỹ sư người Đức Rudolf Diesel đã phát minh ra một loại động cơ đốt trong sử dụng nhiên liệu diesel, người ta lấy tên ông đặt cho loại động cơ này. Khác với động cơ xăng, động cơ diesel dùng nhiên liệu rẻ tiền hơn, hiệu suất làm việc lại cao hơn, nên được sử dụng rất rộng rãi ở nhiều loại hình thiết bị xe, máy. Bộ đôi này chính là “trái tim” của động cơ diesel. Ngày đó yêu cầu của chiến trường, của hậu phương chi viện cho tiền tuyến rất cần nó để làm phụ tùng thay thế khi sửa chữa, bảo dưỡng xe máy, mà viện trợ của nước bạn không thể đáp ứng đủ. Là trường công nghệ lớn nhất, Đại học Bách khoa Hà Nội được Chính phủ tin cậy trao nhiệm vụ phải nghiên cứu và chế tạo thành công “trái tim” của động cơ dùng cho ôtô vận tải nặng, xe bọc thép, xe tăng...
Ngày ấy khi vừa chân ướt chân ráo từ Liên Xô về, kỹ sư Trần Tuấn Thanh được Hiệu trưởng Phạm Đồng Điện mời lên trao nhiệm vụ. Chế tạo bộ đôi BCAVP đòi hỏi phải có trình độ cao trong gia công cơ khí, nhiệt luyện, đo lường... Trong khi trang, thiết bị của các nhà máy cơ khí nước ta ngày ấy còn rất lạc hậu, nhất là chưa từng có một dây chuyền công nghệ cho loại sản phẩm cơ khí chính xác kiểu này. Ông Hà Nghiệp, lúc đó là phó tiến sĩ về dao cắt, được nhà trường chỉ định làm Chủ nhiệm đề tài, ông Trần Tuấn Thanh ở Bộ môn Công nghệ làm Phó Chủ nhiệm. Được một thời gian ngắn, cấp trên rút ông Hà Nghiệp về Trung ương làm trợ lý cho Tổng Bí thư Lê Duẩn, thôi hẳn việc giảng dạy, nghiên cứu, mọi việc triển khai đề tài đều do ông Trần Tuấn Thanh đảm nhiệm chính. Đây thực sự là một đề tài nghiên cứu lớn, mới mẻ, người chủ trì phải huy động được trí tuệ tập thể với nhiều ngành nghề khác nhau. Song, không phải ngay từ đầu nội bộ cán bộ khoa học của trường đã có sự đồng thuận trong phương pháp nghiên cứu, triển khai. Một cán bộ đi thực tập tại Đông Đức về mang theo một số tài liệu BCAVP. Ông ta tuyên bố, chỉ cần thêm một thợ cơ khí bậc cao nữa thôi và yêu cầu quây kín một phần xưởng thực nghiệm để hai người làm việc, không ai có thể “cóp” được bí quyết công nghệ và sản phẩm họ làm ra phải được toàn quyền quản lý, phân phối. Tất nhiên, yêu cầu đó không được Ban Giám hiệu nhà trường chấp nhận. Thực ra cái cách ông ấy định triển khai không có gì khó hiểu, chỉ là thu gọn trong một vài nguyên công làm bằng thủ công từ những dụng cụ và bột mài từ nước ngoài mang về. Cách làm đơn chiếc như thế, hoàn toàn không phù hợp với tinh thần chỉ thị của Chính phủ. Chưa hết, một ông tiến sĩ khoa học về chế tạo máy đã dùng quyền lực và lời hứa hẹn chuyển người thợ bậc cao đó về với mình, cũng định làm ra những bộ đôi BCAVP đơn chiếc, như “sự kiện phản biện” đối với nhóm thực hiện đề tài do nhà trường trao nhiệm vụ. Kết cục ông này cũng thất bại vì động cơ không trong sáng và cách làm phi khoa học.
Có một chuyện đáng nhớ khi xét duyệt đề cương. GS. Viện sĩ Trần Đại Nghĩa khi đó là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (UBKHKTNN) chỉ hỏi một câu: Đo độ chính xác của bơm cao áp bằng cách gì? Cán bộ của Ủy ban báo cáo là, Trường đại học Bách khoa dùng áp lực khí chuyển đổi hiển thị đến 1/1000mm, thì viện sĩ hiểu ngay đó là hướng đi đúng và vui vẻ ký duyệt. Bộ đôi sản phẩm gồm một số chi tiết hợp thành và để chế tạo được mỗi chi tiết như thế, đều phải trải qua từ 50-60 nguyên công, đó là quá trình công nghệ phức tạp, chặt chẽ về thực hiện quy phạm kỹ thuật. Để làm được điều này, liên quan đến nhiều ngành nghề và chất xám của nhiều thầy, cô giáo các bộ môn. Từ đề tài chung, nảy sinh các đề tài nhánh, như: thiết kế, chế tạo loại lò nhiệt luyện riêng cho sản phẩm; phương pháp làm sạch sản phẩm bằng siêu âm; chế tạo loại bột mài cao cấp từ nguyên liệu trong nước để mài sản phẩm đạt độ bóng rất cao; nghiên cứu ứng dụng đo lường, kiểm tra sản phẩm đạt độ chính xác đến 1/1000mm...
Bản thân PGS. Trần Tuấn Thanh ngoài việc quán xuyến chung, ông có nhiều đóng góp cụ thể về thiết kế quy trình công nghệ và những sáng kiến trong gia công cắt gọt kim loại, đã được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cấp bằng Lao động sáng tạo và năm 1981 được đi dự Hội nghị sáng kiến toàn quốc. Từ năm 1985, ông còn làm Chủ nhiệm Chương trình khoa học kỹ thuật trọng điểm cấp nhà nước về cơ khí chính xác (mã số 52-01), Chủ nhiệm đề tài về thủy khí. Cuối năm 1985, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vì những đóng góp nổi bật trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và ông trở thành người Anh hùng Lao động đầu tiên của Đại học Bách khoa Hà Nội sau 30 năm thành lập.
Vậy là với nỗ lực tuyệt vời của một tập thể cán bộ và công nhân kỹ thuật, sau gần 2 năm thiết kế, gia công tại xưởng trường, những bộ đôi BCAVP đầu tiên đã ra đời. Tiếp đó là quá trình chuyển giao công nghệ theo hình thức chìa khóa trao tay. Ngay từ đầu, tại Nhà máy ôtô 3-2 (Bộ Giao thông Vận tải) đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhóm đề tài và lãnh đạo nhà máy, đào tạo được một bộ khung gồm các kỹ sư công nghệ và thợ bậc cao đồng bộ cho dây chuyền sản xuất loại sản phẩm này. Sau ngày nước nhà thống nhất, công nghệ chế tạo BCAVP còn được triển khai đồng bộ ở Nhà máy phụ tùng số 3, TP. Hồ Chí Minh và các điểm phục hồi sản phẩm ở Nam Định, Khánh Hòa, Bình Định... Thành công của đề tài cũng tức là thành công của nền công nghệ cơ khí chính xác, từ đây Đại học Bách khoa còn mở rộng áp dụng việc sửa chữa, phục hồi cho các loại hình thiết bị khác, như việc phục hồi bơm thủy lực (còn phức tạp hơn bơm cao áp) cho máy phun bê tông làm hầm Nhà máy Thủy điện Hòa Bình; phục hồi động cơ thủy lực cho tàu cuốc của Công ty Thủy lợi TP. Hồ Chí Minh; đã chế tạo thành công bộ đôi điều khí bằng khí nén dùng trong máy bay trực thăng. Những năm 1993-1997, Trung tâm cơ khí chính xác của Đại học Bách khoa do PGS. Trần Tuấn Thanh làm Giám đốc có chương trình hợp tác với hãng Shiroky, Nhật Bản sản xuất một số loại sản phẩm về cơ khí chính xác...
Đấy là cả một câu chuyện dài về quá trình lao động, cống hiến của người Anh hùng Lao động suốt gần 40 năm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Năm 1997, khi người anh hùng này về hưu rồi, vẫn còn tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp phát triển ngành công nghiệp cơ khí chính xác nước ta, bằng việc cùng một số đồng nghiệp lập ra Liên hiệp khoa học kỹ thuật Bắc Hà, thuộc Hội Tự động hóa Việt Nam và Liên hiệp này hoạt động thêm một thời gian nữa. Chỉ khi tuổi đã ngoại 70, PGS. Trần Tuấn Thanh mới dần thấy gánh nặng của tuổi tác. Xuất hiện những dấu hiệu của bệnh tim mạch, xương khớp, thần kinh. Ông hiểu đó là lẽ thường tình, dẫu không quá lo lắng, song cũng không chủ quan, lơ là việc giữ gìn sức khỏe. Hằng ngày ông để ra ít nhất 2 giờ đồng hồ vào buổi sáng và buổi chiều cho việc luyện tập và thư giãn. Thấy khớp xương bả vai trái đau khác thường, ông tự nghĩ ra các động tác tập xoay, lắc nhẹ nhiều lần, kiên trì cả tháng, thấy đỡ hẳn. Bệnh tăng huyết áp, ngoài việc uống thuốc thường xuyên, hàng ngày vào buổi chiều ông đi bộ thư giãn quanh khu nhà cao tầng nhiều vòng và huyết áp bình ổn trở lại trước khi lên giường đi ngủ. Ông thường tâm sự với những bạn cao tuổi trong khu tập thể: Hết sức tránh những stress; ngay cả việc đấu tranh phê bình trong cuộc họp cũng không nên có những lời lẽ gay gắt, quá khích dẫn tới nóng giận, nói xong là thôi, không để bụng. Hàng tháng ông còn cùng vợ tổ chức chuyến thăm quan du lịch về một nơi nào đó, ông bảo đó cũng là cách sống khỏe, sống vui. Và người Anh hùng Lao động tuổi cao nhưng tính tình vui, hóm ấy, đã “chế” ra một câu châm ngôn sống cho mình, hiện nhiều cụ cao niên ở chung cư Ngô Thì Nhậm đều cho là chí lý và thuộc làu: Sống vô tư, ăn từ từ, đi đột ngột!