Các vị thuốc này phối hợp với nhau để quân bình âm - dương và tăng cường sức lực cho cơ thể. Bài thuốc này chủ bổ các tạng: Thận, Tâm, Can.
Mất quân bình âm - dương
Trong lý luận của Đông y, mọi chứng bệnh đều do mất quân bình âm - dương. Việc điều trị bệnh chủ yếu là lập lại trạng thái âm - dương quân bình. Ở chứng bệnh dương nuy thể âm dương lưỡng hư, người bệnh bị rối loạn ở cả hai mặt: âm và dương. Cụ thể:
Thận âm: chủ về tinh huyết là vật chất dinh dưỡng để đảm bảo cho cơ thể khoẻ mạnh, làm việc được lâu, có âm khí để làm cho độ cương cứng tốt. Vì vậy, thận âm hư thường gây ra bệnh đau ngang thắt lưng, tiểu đêm, di tinh, mộng tinh, người gầy, vẫn còn ham muốn nhưng không giao hợp được vì dương vật không cương cứng.
Triệu chứng: sắc mặt ảm đạm, tóc dễ rụng, răng lung lay, miệng khô, tâm phiền, mồ hôi trộm, sợ rét, chi ấm, di tinh, đái dầm, lưỡi nhạt hoặc có rãnh nứt, rêu mỏng, mạch trầm tế hoặc nhược (chìm, nhỏ hoặc yếu).
Thận dương: chủ về hưng phấn của cơ thể, làm cho người ta nhanh nhẹn, ham muốn nhiều, cơ thể ấm áp, khoẻ mạnh. Nếu thận dương hư yếu, người và chân tay sẽ lạnh, lờ đờ, chậm chạp, không muốn ăn uống, trông người vẫn bình thường nhưng sự ham muốn tình dục sẽ yếu, giảm dần rồi mất hẳn. Nguyên nhân của chứng trạng này có thể là do tuổi cao thận yếu, dương suy; phòng dục bừa bãi; bệnh lâu ngày liên lụy đến thận
Như trên đã nói, âm và dương là hai mặt của một thể thống nhất. Do vậy, âm hư lâu ngày dẫn đến dương hư, dương hư cũng dẫn đến âm hư, là vì âm và dương “bắt rễ” với nhau, trong âm có dương, trong dương có âm, cuối cùng dẫn đền âm dương lưỡng hư: bệnh nặng, khó chữa.
Người bệnh thể bệnh này thường không còn sức lực, hay mệt mỏi, uể oải, sợ lạnh, nhưng lòng bàn chân, bàn tay mát lạnh miệng cổ họng khô, thường chóng mặt, ù tai, lưng gối đau mỏi, đi tiểu trong mà dài, đái rắt…; mặt bộ xích tế nhược. Nam giới mắc chứng bệnh này ngoài việc bị dương nuy còn bị di tinh, hoạt tinh, tinh trùng thiếu và yếu khó có con.
Bài thuốc
Có nhiều bài thuốc, vị thuốc hay để điều trị chứng dương nuy thể âm dương lưỡng hư. Trong bài này, chúng tôi giới thiệu bài cổ phương:
Tráng dương cố bản địa hoàng gia giảm, gồm: thục địa 1.200g nấu cao, hoài sơn 240g (sao vàng), sơn thù 240g tẩm rượu sao, phục linh 160g tẩm sữa sấy khô, lộc nhung 120g, lộc giác giao 160g, phá cố chỉ 160g tẩm muối sao, ngũ vị tử 80g tẩm mật sao, câu kỷ tử 320g, trạch tả 120g sao muối, phụ tử 60g, nhục quế 60g.
Thục địa
Các vị thuốc tiêu biểu:
Thục địa: có vị ngọt, mùi thơm, tính hơi ôn; có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm, bổ huyết, làm đen râu tóc. Để bổ âm thì thục địa là “thuốc thánh”. Y học hiện đại đã chứng minh được tác dụng chống đường huyết, tác dụng cầm máu, lợi tiểu, sinh tinh, làm chất kháng sinh của thục địa nói riêng và địa hoàng nói chung.
Hoài sơn: kiện tỳ vị, ích tâm phế, bổ thận, chỉ tả lỵ, chữa di tinh, mộng tinh và hoạt tinh.
Sơn thù: thành phần hóa học: thành phần chủ yếu là saponi, axít ursolic, tanin, vitamin A. Theo y học cổ truyền, sơn thù du có tác dụng bổ can thận, chắc tinh khí. Chủ trị các chứng dương nuy, hoạt tinh, di tinh, đổ mồ hôi liên tục.
Sơn thù
Phục linh: có tác dụng lợi thủy thảm thấp, kiện tỳ, an thần. Chủ trị các chứng tiểu khó ít, phù, chứng đàm ẩm, tỳ khí hư nhược, hồi hộp, mất ngủ.
Lộc nhung: Hải Thượng Lãn Ông trong sách Dược phẩm vận yếu đã viết: lộc nhung dùng bổ tinh huyết nguyên dương nhanh hơn, chủ về tiểu tiện đi luôn mà lợi, tinh tiết, đi tiểu ra huyết, đau lưng, chân và đầu gối thiếu sức lực, mộng tinh, di tinh. Có tác dụng làm đầy tinh huyết, mạnh nguyên dương, nhuận phế kim, rất bổ cho người gầy yếu, cứng gân, chứng hư lao, phụ nữ băng huyết, rong huyết. Bởi tính con hươu đa dâm nên chuyên chủ về tráng dương bổ thận. Lại nói: trị chứng xích bạch đới, tan lâm lậu đá sỏi, ung độc sưng đau, nhiệt trong xương sinh âm hư, là vị thuốc cốt yếu để bổ huyết cũ sinh huyết mới”.
Theo Ðông y, lộc nhung có vị ngọt, tính ôn, vào các kinh can, thận, tâm và tâm bào, được dùng trong mọi trường hợp hư tổn của cơ thể, nam giới hư lao, tinh kém, hoa mắt, hoạt tinh; nữ giới băng lậu, đới hạ…
Bài thuốc chữa chứng thận âm - dương lưỡng hư, lập lại quân bình âm dương, bồi bổ sức khỏe, giúp người bệnh lấy lại “bản lĩnh” đàn ông, qua đó dồi dào “tinh binh” để có thể giúp thụ thai.