Kháng kháng sinh, mối đe dọa sức khỏe và sự phát triển toàn cầu

20-11-2021 19:00 | An toàn dùng thuốc

SKĐS - WHO đã tuyên bố, kháng kháng sinh (AMR) là một trong 10 mối đe dọa sức khỏe cộng đồng toàn cầu mà nhân loại phải đối mặt. Sử dụng sai cách và lạm dụng thuốc kháng sinh… là những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển của các mầm bệnh kháng thuốc.

  • Thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh cũng như phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng không đầy đủ cũng sẽ thúc đẩy sự lây lan của vi khuẩn kháng thuốc. Một số vi khuẩn có thể kháng lại việc điều trị bằng thuốc kháng sinh.
  • Chi phí AMR đối với nền kinh tế là đáng kể. Ngoài tử vong và tàn tật, bệnh tật kéo dài khiến thời gian nằm viện lâu hơn, nhu cầu về thuốc men đắt tiền hơn và thách thức tài chính đối với những người bị ảnh hưởng.
  • Nếu không có thuốc kháng sinh hiệu quả, thành công của y học hiện đại trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng, bao gồm cả trong quá trình phẫu thuật lớn (đại phẫu), hóa trị ung thư… sẽ trở nên vô cùng rủi ro.
photo-1637393490616

Thuốc kháng sinh, vũ khí để chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.

1. Thuốc kháng khuẩn là gì?

Thuốc kháng khuẩn, bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc kháng virus, thuốc chống nấm và thuốc chống ký sinh trùng… là những loại thuốc được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị các bệnh nhiễm trùng ở người, động vật và thực vật.

2. Kháng kháng sinh là gì?

Kháng thuốc kháng sinh (AMR) xảy ra khi vi khuẩn, virus, nấm và ký sinh trùng thay đổi theo thời gian và không còn đáp ứng với thuốc, làm cho bệnh nhiễm trùng khó điều trị hơn và làm tăng nguy cơ lây lan bệnh, bệnh nặng và tử vong.

Do tình trạng kháng thuốc, thuốc kháng sinh và các loại thuốc chống vi trùng khác trở nên vô hiệu và nhiễm trùng ngày càng trở nên khó hoặc không thể điều trị được.

3. Tại sao kháng kháng sinh lại là mối quan tâm toàn cầu?

Sự xuất hiện và lây lan của các mầm bệnh kháng thuốc, tiếp tục đe dọa khả năng điều trị các bệnh nhiễm trùng thông thường. Đặc biệt đáng báo động là sự lây lan nhanh chóng trên toàn cầu của vi khuẩn đa kháng (còn được gọi là "siêu vi khuẩn") gây ra các bệnh nhiễm trùng không thể điều trị được bằng các loại thuốc chống vi trùng hiện có như thuốc kháng sinh.

Hiện các nghiên cứu lâm sàng về thuốc kháng sinh mới đã cạn kiệt. Vào năm 2019, WHO đã xác định được 32 loại kháng sinh trong quá trình phát triển lâm sàng, trong đó chỉ có sáu loại được phân loại là cải tiến. Hơn nữa, việc thiếu khả năng tiếp cận với các chất kháng khuẩn chất lượng vẫn là một vấn đề lớn.

Chi phí của AMR đối với các nền kinh tế quốc gia và hệ thống y tế là đáng kể do thời gian nằm viện kéo dài và nhu cầu chăm sóc chuyên sâu và tốn kém hơn.

Nếu không có các công cụ hữu hiệu để phòng ngừa và điều trị đầy đủ các bệnh nhiễm trùng kháng thuốc cũng như cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc kháng sinh hiện có… số người thất bại trong điều trị hoặc tử vong do nhiễm trùng sẽ tăng lên. Các thủ tục y tế, chẳng hạn như phẫu thuật, bao gồm sinh mổ hoặc thay khớp háng, hóa trị ung thư và cấy ghép nội tạng… sẽ trở nên rủi ro hơn.

photo-1637393492552

Kháng thuốc là mối đe dọa sức khỏe toàn cầu.

4. Điều gì thúc đẩy sự xuất hiện và lan rộng của kháng kháng sinh?

AMR xảy ra tự nhiên theo thời gian, thường là do thay đổi gen. Các sinh vật kháng kháng sinh được tìm thấy trong người, động vật, thực phẩm, thực vật và môi trường (trong nước, đất và không khí). Chúng có thể lây từ người sang người hoặc giữa người và động vật, kể cả từ thực phẩm có nguồn gốc động vật.

Các nguyên nhân chính của tình trạng kháng thuốc kháng sinh bao gồm việc sử dụng sai cách và lạm dụng thuốc kháng sinh; thiếu khả năng tiếp cận với nước sạch, điều kiện vệ sinh và vệ sinh cá nhân cho cả người và động vật; phòng chống lây nhiễm và dịch bệnh kém trong các cơ sở y tế và trang trại; khả năng tiếp cận kém với các loại thuốc, vaccine và chẩn đoán chất lượng, giá cả phải chăng; thiếu ý thức và kiến thức và thiếu sự thực thi của pháp luật…

5. Thực trạng về kháng thuốc

5.1 Kháng thuốc ở vi khuẩn

Đối với các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn thông thường, bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục và một số dạng tiêu chảy… tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh thường dùng để điều trị các bệnh nhiễm trùng này đã được quan sát thấy trên toàn thế giới, cho thấy rằng chúng ta đang hết thuốc kháng sinh hiệu quả.

Ví dụ, tỷ lệ đề kháng với ciprofloxacin, một loại kháng sinh thường được sử dụng để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu, thay đổi từ 8,4% đến 92,9% đối với vi khuẩn E.coli và từ 4,1% đến 79,4% đối với K.pneumoniae ở các quốc gia báo cáo qua Hệ thống giám sát kháng kháng sinh toàn cầu (GLASS).

K.pneumoniae là vi khuẩn đường ruột phổ biến có thể gây nhiễm trùng đe dọa tính mạng. Tình trạng kháng thuốc ở K. pneumoniae đối với phương pháp điều trị cuối cùng (kháng sinh carbapenem) đã lan rộng ra tất cả các khu vực trên thế giới. K. pneumoniae là nguyên nhân chính gây ra các bệnh nhiễm trùng bệnh viện như viêm phổi, nhiễm trùng đường máu và nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh và bệnh nhân ở khoa chăm sóc đặc biệt. Ở một số quốc gia, thuốc kháng sinh carbapenem không có tác dụng với hơn một nửa số bệnh nhân được điều trị nhiễm trùng K. pneumoniae do kháng thuốc.

Tình trạng kháng thuốc kháng sinh fluoroquinolone ở E. coli, được sử dụng để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu đang phổ biến. Nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay điều trị không hiệu quả ở hơn một nửa số bệnh nhân.

Colistin là phương pháp điều trị cuối cùng duy nhất đối với các bệnh nhiễm trùng đe dọa tính mạng do Enterobacteriaceae kháng carbapenem. Vi khuẩn kháng colistin cũng đã được phát hiện ở một số quốc gia và khu vực, gây ra các bệnh nhiễm trùng mà hiện nay chưa có phương pháp điều trị kháng sinh hiệu quả.

Vi khuẩn S.aureus là một phần của hệ thực vật da và cũng là một nguyên nhân phổ biến của các bệnh nhiễm trùng ở cả cộng đồng và tại các cơ sở y tế. Những người bị nhiễm trùng S. aureus kháng methicillin (MRSA ) có nguy cơ tử vong cao hơn 64% so với những người bị nhiễm trùng nhạy cảm với thuốc.

Sự kháng thuốc trên diện rộng ở các chủng N. gonorrhoeae rất đa dạng đã ảnh hưởng đến việc quản lý và kiểm soát bệnh lậu. Kháng thuốc đã nhanh chóng xuất hiện đối với sulphonamid, penicilin, tetracyclin, macrolid, fluoroquinolon và cephalosporin thế hệ đầu. Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia, ceftriaxone, cephalosporin (ESC) phổ rộng dạng tiêm là đơn trị liệu duy nhất còn lại theo kinh nghiệm cho bệnh lậu…

photo-1637393493741

Nhiều loại vi khuẩn đã trở nên kháng thuốc kháng sinh.

Các chủng vi khuẩn lao Mycobacterium kháng thuốc kháng sinh đang đe dọa tiến trình ngăn chặn đại dịch lao toàn cầu. WHO ước tính rằng, trong năm 2018, có khoảng nửa triệu trường hợp mới mắc lao kháng rifampicin (RR-TB) được xác định trên toàn cầu, trong đó phần lớn mắc lao đa kháng thuốc (MDR-TB), kháng hai loại thuốc chống lao mạnh nhất. Chỉ 1/3 trong số khoảng nửa triệu người phát triển MDR/RR-TB trong năm 2018 được phát hiện và báo cáo. Lao đa kháng thuốc đòi hỏi các liệu trình điều trị dài hơn, kém hiệu quả hơn và đắt hơn nhiều so với các liệu trình điều trị lao không kháng thuốc. Ít hơn 60% những người được điều trị lao đa kháng thuốc/RR-TB được chữa khỏi thành công.

Năm 2018, ước tính có khoảng 3,4% số người mắc lao mới và 18% số trường hợp đã điều trị trước đó mắc lao đa kháng thuốc/RR-TB và sự xuất hiện của tình trạng kháng thuốc lao mới - 'giải pháp cuối cùng' để điều trị lao kháng thuốc là một mối đe dọa lớn.

5.2 Kháng thuốc ở virus

Kháng thuốc kháng virus là mối quan tâm ngày càng tăng trong quần thể bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Sự kháng thuốc đã phát triển đối với hầu hết các loại thuốc kháng virus bao gồm cả thuốc kháng virus ARV.

Tất cả các loại thuốc điều trị ARV, kể cả các loại thuốc mới hơn, đều có nguy cơ mất tác dụng một phần hoặc toàn bộ do sự xuất hiện của HIV kháng thuốc (HIVDR). Những người được điều trị bằng thuốc kháng virus có thể nhiễm HIVDR và những người cũng có thể bị nhiễm HIV đã kháng thuốc.

5.3 Kháng thuốc ở ký sinh trùng sốt rét

Sự xuất hiện của ký sinh trùng kháng thuốc là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với việc kiểm soát bệnh sốt rét và làm tăng tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét. Các liệu pháp phối hợp dựa trên artemisinin (ACT) là phương pháp điều trị đầu tay được khuyến cáo cho bệnh sốt rét do P. falciparum không biến chứng và được hầu hết các nước lưu hành bệnh sốt rét sử dụng.

ACT là điều trị thuốc phối hợp có artemisinin hoặc dẫn xuất của artemisinin, hay nói một cách khác là dùng thuốc artemisinin hoặc dẫn xuất của artemisinin phối hợp với một loại thuốc sốt rét khác mà không được dùng đơn thuần.

Ở khu vực Tây Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á của WHO, tình trạng kháng một phần với artemisinin và kháng một số loại thuốc khác đã được xác nhận ở Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam thông qua các nghiên cứu được tiến hành từ năm 2001 đến năm 2019. Điều này làm cho việc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp trở nên khó khăn hơn và đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ.

Ở khu vực Đông Địa Trung Hải của WHO, P. falciparum kháng sulfadoxine-pyrimethamine đã dẫn đến thất bại artesunate-sulfadoxine-pyrimethamine ở một số quốc gia, đòi hỏi phải thay đổi ACT khác…

Cho đến nay, các ACT đã được thử nghiệm vẫn có hiệu quả cao. Tuy nhiên, tình trạng kháng thuốc artemisinin và ACT lan rộng hơn nữa có thể gây ra thách thức lớn đối với sức khỏe cộng đồng và gây nguy hiểm cho những thành tựu quan trọng trong kiểm soát bệnh sốt rét...

Tuần lễ nâng cao nhận thức về kháng sinh trên thế giới (WAAW)

Tuần lễ nâng cao nhận thức về kháng sinh trên thế giới (WAAW) được tổ chức từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 11 hàng năm. Chủ đề năm 2021 là: "Lan truyền nhận thức, đẩy lùi kháng thuốc", kêu gọi các bên liên quan Một sức khỏe, các nhà hoạch định chính sách, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và công chúng nói chung nâng cao nhận thức về kháng thuốc (AMR)…

Từ năm 2020, WAAW được mở rộng bao gồm tất cả các chất chống vi trùng bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc chống nấm, thuốc chống ký sinh trùng và thuốc kháng virus.

5.4 Kháng thuốc chống nấm

Tỷ lệ nhiễm nấm kháng thuốc ngày càng gia tăng và làm trầm trọng thêm tình hình điều trị vốn đã khó khăn. Nhiều bệnh nhiễm trùng do nấm có các vấn đề về khả năng điều trị hiện tại như độc tính, đặc biệt là đối với những bệnh nhân bị nhiễm trùng cơ bản khác (ví dụ như HIV).

Candida auris, một trong những bệnh nhiễm nấm xâm nhập phổ biến nhất, đã có sự gia tăng kháng thuốc với các thuốc chống nâm như: Fluconazole, amphotericin B và voriconazole cũng như tình trạng kháng caspofungin đang nổi lên.

Điều này dẫn đến tình trạng nhiễm nấm khó điều trị hơn, điều trị thất bại, thời gian nằm viện lâu hơn và các phương án điều trị tốn kém hơn nhiều. WHO đang tiến hành đánh giá toàn diện các trường hợp nhiễm nấm trên toàn cầu và sẽ công bố danh sách các loại nấm gây bệnh có tầm quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng, cùng với phân tích về lộ trình phát triển kháng nấm.

6. Cần hành động phối hợp

AMR là một vấn đề phức tạp đòi hỏi một cách tiếp cận đa ngành thống nhất. Cách tiếp cận Một sức khỏe tập hợp nhiều ngành và các bên liên quan tham gia, làm việc cùng nhau trong việc thiết kế và thực hiện các chương trình, chính sách, luật pháp và nghiên cứu để đạt được hiệu quả tốt hơn kết quả sức khỏe cộng đồng.

Cần phải đổi mới và đầu tư nhiều hơn nữa trong nghiên cứu vận hành cũng như nghiên cứu và phát triển các loại thuốc, vaccine và công cụ chẩn đoán kháng khuẩn mới, đặc biệt là những thuốc nhắm vào các vi khuẩn gram âm quan trọng như Enterobacteriaceae kháng carbapenem và Acinetobacter baumannii. Cần có nhiều sáng kiến hơn để tìm ra các giải pháp lâu dài…

COVID-19 có thể thúc đẩy sự lây lan của “siêu nấm” kháng thuốcCOVID-19 có thể thúc đẩy sự lây lan của “siêu nấm” kháng thuốc

SKĐS - Brazil đã báo cáo những trường hợp đầu tiên bị nhiễm một loại nấm gây chết người với tên gọi Candida auris (C. auris) và đang ngày càng trở nên kháng thuốc chống nấm.

BS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Mạng lưới Thầy thuốc Đồng hành
Ý kiến của bạn